12 tháng 5, 2012

Nhìn lại sự kiện ở Thái Bình (đêm 26, rạng 27/6/97)


Sự kiện ở Thái Bình (đêm 26, rạng 27/6/97).


Quê tôi ở Thái Bình nhưng sự kiện này xảy ra sau này tôi mới biết vì lúc đó tôi đi học ở Hà Nội, sau này về quê được nghe các bác các cô tham gia biểu tình kể lại, chắc nhiều bạn cũng chỉ nghe nói mà chưa biết như thế nào, vì vậy tôi gửi bài này lên để các bạn tham khảo, lưu ý các bạn đây là góc nhìn của 1 nhà xã hội học (Tên tuổi của Giáo sư Tương Lai chắc nhiều bạn không lạ gì).

Báo cáo sơ bộ về cuộc khảo sát xã hội tại Thái Bình cuối tháng sáu, đầu tháng bảy năm 1997

Tương Lai
Viện trưởng Viện Xã Hội Học,
Thành viên của Tổ Nghiên Cứu Ðổi Mới của Thủ tướng Chính phủ
 

Sự kiện đêm 26 rạng ngày 27/6/1997 ở xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình như một hồi chuông báo động khiến chúng ta cần tỉnh táo nhìn nhận lại về hậu phương vững chãi của chúng ta để có những suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân trong sự nghiệp Ðổi mới và công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông nghiệp.

An Ninh là lá cờ đầu của huyện Quỳnh Phụ, và cũng có thể nói là lá cờ đầu của Thái Bình, một điển hình tiên tiến đã từng là quê hương của phong trào 5 tấn trước đây và hiện nay luôn luôn là lá cờ đầu của nhiều phong trào quần chúng chiếm lĩnh đỉnh cao thành tích về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng v.v... Gần đây Thái Bình càng nổi bật trong việc triển khai chương trình xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt với 4 công trình lớn: Ðiện, Ðường, Trường, Trạm cùng tiến hành đồng thời và thu được những thành tích lớn, tạo ra một diện mạo khang trang đẹp đẽ của một tỉnh lúa đồng bằng sông Hồng mà khách tham quan có thể ngồi trên ô tô đi khắp các xã trong tỉnh trên con đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ đã rải nhựa hoặc lát gạch phẳng lì!

Ấy thế rồi, đêm 26, rạng 27/6/97 hàng ngàn nông dân nổi dậy đập phá chậu cảnh tường hoa, bàn xa lông tiếp khách, bát đĩa dùng liên hoan và chiêu đãi, kính tủ bàn của trụ sở ủy ban xã, một tòa nhà uy nghi, lộng lẫy vừa xây tốn hơn 800 triệu đồng. Rồi sau đó, dân kéo đi đập phá 8 ngôi nhà của bí thư Ðảng ủy, Chủ tịch ủy ban, cán bộ địa chính và các bậc chức sắc khác nhau của xã (chỉ có một nhà của một người dân làm việc nấu nướng phục vụ hội nghị và khách của xã). Sau đêm hỗn loạn, giận dữ, đốt phá, sáng mai hoạt động của xã lại bình thường, người ta lại vẫn ra đồng họp chợ, đi lại chuyện trò vô tư!

Ba ngày sau sự kiện nói trên, theo yêu cầu của Tổ nghiên cứu Ðổi mới của Thủ tướng Chính phủ, đoàn cán bộ xã hội học chúng tôi về xã An Ninh, được bí thư Ðảng ủy tiếp tại trụ sở mà kính vỡ, mãnh bát đĩa vỡ, chậu cảnh vỡ vẫn ngổn ngang, kể cả một tượng Bác Hồ bằng thạch cao trắng bị vỡ vẫn nằm ở góc bàn trong hội trường và theo lời của bí thư Ðảng ủy xã thì "Hiện trường vẫn được giữ nguyên" như để nói lên tính phản loạn không thể dung tha được và cần phải trấn áp ngay của vụ bạo động 26-27/6/97.

Vấn đề gì đã diễn ra ở đây ? Nguyên nhân vì đâu ? Hậu quả ra sao ? Diễn biến sắp tới sẽ thế nào ? Cần có kiến nghị gì đây từ sự tiếp cận xã hội học. Ðó là vấn đề đặt ra cho chúng ta, ba nhóm nghiên cứu gồm 10 người.

Một nhóm về ở ngay trong lòng điểm nóng : xã An Ninh gồm 4 người (1 Phó giáo sư, Phó tiến sĩ, Trưởng phòng xã hội học nông thôn, 1 bí thư chi bộ và là trợ lý của Viện trưởng, 1 Phó tiến sĩ Trưởng phòng tổ chức và đào tạo cán bộ, đảng viên, 1 nữ cán bộ nghiên cứu của phòng xã hội học nông thôn, đảng viên).

Một nhóm gồm ba cán bộ, do một Phó giáo sư, Phó tiến sĩ và là Phó viện trưởng phụ trách khoa học dẫn đầu, một cán bộ nghiên cứu, Phó phòng xã hội học nông thôn, một cán bộ trẻ (cả hai đều là người quê ở Thái Bình, đang có họ hàng ở Thái Bình) đi theo tuyến rộng, dọc theo đường Hà Nam, Nam Ðịnh, qua Tiền Hải, vòng về thị xã, qua Ðông Hưng, Thái Thụy, Quỳnh Phụ, Kiến Xương để tìm hiểu âm vang và độ nhiễm cảm của các sự kiện bạo động trong tỉnh.

Một nhóm xuất phát sau một tuần, đến huyện Thái Thụy nơi có điểm nóng Thái Thịnh để đo sự diễn biến sau sự kiện An Ninh và dư luận quần chúng về các giải pháp của chính quyền Tỉnh đã áp dụng. Nhóm này gồm một Phó giáo sư, ba Phó tiến sĩ đều là đảng viên, trong đó có một chuyên gia đã từng có công trình nghiên cứu sâu về nông thôn và về Thái Bình, đang làm luận án Tiến sĩ sẽ bảo vệ tại Pháp về đề tài nông thôn Việt Nam.

Ðồng thời với các nhóm đi khảo sát tại Thái Bình, Viện trưởng Viện Xã hội học đã giao nhiệm vụ cho một Phó tiến sĩ phó trưởng phòng Xã hội học dân số và gia đình đang cùng với các cán bộ triển khai một đề tài nghiên cứu về hộ kinh tế gia đình và địa vị của người phụ nữ kết hợp khảo sát thêm về chủ đề như nhóm nghiên cứu sâu ở Thái Bình đang làm, hiện triển khai tại Hải Hậu, Nam Ðịnh. Cũng như thế, sau khi kết thúc nghiên cứu ở Thái Bình một tuần, Viện trưởng Viện Xã hội học đã trao nhiệm vụ cho một đoàn nghiên cứu tại 10 xã trong 3 tỉnh (Hà Nam, Nam Ðịnh, Ninh Bình) về đề tài biến động dân số thu thập thêm tư liệu về chủ đề như đã nghiên cứu ở Thái Bình, người phụ trách này là một nghiên cứu sinh đang làm luận án tiến sĩ ở Mỹ về dân số, là đảng viên, kết hợp với đồng chí bí thư chi bộ đã từng nghiên cứu ở Quỳnh Phụ, Thái Bình cùng tiến hành, và cũng chỉ hai đảng viên này thu thập số liệu để báo cáo trực tiếp cho Viện trưởng. Công việc đang được triển khai và sẽ bổ sung vào báo cáo tổng kết này.

Bản báo cáo tổng kết này là dựa trên các tư liệu thu thập được qua phỏng vấn sâu, quan sát trực tiếp, các văn bản của tỉnh, huyện, xã (băng ghi âm ghi lời người được hỏi và tập hồ sơ ghi lại nội dung đã thu vào băng) cùng với 8 báo cáo của các cán bộ đi khảo sát và sơ kết của nhóm khảo sát. Vì đây chỉ là thông tin được thu thập qua phỏng vấn, chuyện trò và lời người kể có thể là người trong cuộc, người chứng kiến, người nghe kể lại không khỏi bị khúc xạ theo lăng kính chủ quan, cho nên các số liệu, (cho dù ghi thành con số) cũng chỉ có ý nghĩa phỏng chừng, tương đối khác với thống kê và báo cáo chính thức của người có trách nhiệm ở địa phương. Người viết báo cáo, trong trường hợp có dẫn ra các số liệu cũng là để gợi lên tình huống, không mang tính biểu đạt thật chính xác.


I. Tổng quan về các sự kiện dẫn đến sự bùng nổ ở Thái Bình

Những ngày cuối cùng của tháng 6 năm 1997 đã cho thấy tính nghiêm trọng của một loạt những sự biến đã xảy ra ở một phần lớn các vùng nông thôn tỉnh Thái Bình. Ðã có tới 5 (Quỳnh Phụ, Hưng Hà, Tiền Hải, Ðông Hưng, Thái Thụy) trên 7 huyện và thị của tỉnh có phản ứng và khiếu kiện của nông dân về những vấn đề dân chủ và công bằng xã hội trong nông thôn. Nội dung chủ yếu của những khiếu kiện này tập trung xung quanh việc đòi thanh tra và công khai hóa việc phân chia ruộng và nhất là việc thu và chi những khoản đóng góp mà chính quyền địa phương (xã và huyện) thu của nông dân trong những năm qua để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong nông thôn, chủ yếu là các công trình : Ðiện - Ðường -Trường -Trạm.

Xây dựng kết cấu hạ tầng, trong đó đặc biệt là các công trình Ðiện - Ðường -Trường -Trạm là một chủ trương đúng đắn của tỉnh, rất hợp với nguyện vọng của dân. Người dân Thái Bình nói chung rất tự hào về hệ thống đường giao thông liên tỉnh, liên huyện và liên xã của họ.

Ðiều đáng nói ở đây là các công trình này đã được thực hiện trong 5 năm qua với một tốc độ và nhịp điệu quá nhanh. Do đó các khoản thu từ nhân dân cũng tăng nhanh chưa từng thấy. Năm 1991, tỉnh chủ trương chỉ đảm bảo cho 65% các hộ trong tỉnh có điện dùng vào năm 1995. Nhưng cuối năm 1992 đã có 70% số hộ (báo cáo của ủy ban nhân dân tỉnh, tháng 10 năm 1992) và năm 1996, 100% số hộ trong tỉnh đã có điện dùng, toàn bộ đường tỉnh đã được nhựa hoặc xi măng hóa hết và 2/3 số trường học trong tỉnh đã là nhà cao tầng. Nguồn vốn để chi cho các công trình này chủ yếu lấy từ các nguồn trong tỉnh.

Trong ba năm 1988 - 1990, tổng số vốn đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật là 39,5 tỉ đồng, trong đó 9,5 tỉ là do Trung ương cấp, 30 tỉ là từ huy động ngân sách trong tỉnh. Nhưng phần vốn huy động từ sự đóng góp của nhân dân và tập thể cũng rất lớn. Ngoài ra, các quỹ giao thông xóm xã cũng ra sức phát triển. Có nơi còn chủ trương "cứng hóa kênh mương" để tăng nhanh các nguồn thu từ nhân dân (Thái Thụy). Phải chăng các khoản thu này là quá lớn so với khả năng đóng góp của người nông dân Thái Bình vốn chỉ có nguồn thu từ hạt thóc là chủ yếu ? Cơ cấu thu nhập của tỉnh vào năm 1991 cho thấy 81% là thu từ nông nghiệp. Các khoản thu này lên tới chừng trên dưới 35 khoản, thay vì 14 khoản theo quy định của huyện và 7 khoản theo quy định của tỉnh. Ðiều cần lưu ý là các khoản thu và chi này đã không được sử dụng một cách công khai và dân chủ. Các khoản thanh toán được công bố lại cho thấy có dấu hiệu của sự lạm dụng công quỹ, bởi nó vượt quá xa các định mức chi phí trên thị trường (giá của các công trình xây dựng thường cao gấp nhiều lần giá trị thực tế của chúng). Một chiếc cống thoát nước do chính quyền xã xây đã quyết toán tới 21 triệu đồng, nhưng khi dân đập đi xây lại thì chỉ mất 7,5 triệu đồng (Xã Quỳnh Hồng). Trong khi đó, một số cán bộ chủ chốt ở một số địa phương lại có biểu hiện giàu lên nhanh quá mức bình thường trong năm năm qua, cùng với sự giàu lên trông thấy qua nhà cửa, các phương tiện sử dụng trong sinh hoạt là những nét xa hoa kệch cỡm về lối sống của một số người dễ dàng gây phản ứng trong quần chúng.

Nhân dân một số địa phương đã có đơn khiếu kiện lên xã, huyện, thậm chí cả tỉnh với các hình thức hợp pháp, từ đưa đơn có nhiều chữ ký cho một người đi gặp các cấp lãnh đạo có thẩm quyền (Tiền Hải, xã Ðông Trà), tới việc tập trung vài chục hay vài trăm người trước cổng ủy ban tỉnh từ cuối năm 1996. (Quỳnh Hội : tháng 10/1996, 700 người lên tỉnh 2 đêm 1 ngày để trình đơn khiếu kiện, sau đó là đợt 2, với 1.500 người, đòi thanh tra lại đất 5% vào tháng 4/1997). Người ta ước tính có chừng 120/260 xã trong tỉnh có biểu tình đưa đơn và từ chỗ đi lẻ tẻ, dần dần hình thành tổ chức quy mô hơn, người ta cho rằng có chừng 40 cuộc biểu tình lên tỉnh được tổ chức có quy củ và trật tự.

Những cuộc khiếu kiện này thường được tiếp đón một cách không nhiệt tình. Cách trả lời thường là sự im lặng kéo dài, hoặc lờ đi, hoặc cho thanh tra công khai nhưng kết luận không có gì. Những vấn đề này, thực ra, đã nảy sinh từ những năm 86 - 90 song cách giải thích chính thức của các cấp chính quyền từ xã, đến huyện, đến tỉnh về những sự kiện trên thường cho đó là "những biểu hiện tiêu cực nảy sinh do một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền tham nhũng, đè nén dân, làm mất uy tín của Ðảng và Nhà nước. Mặt khác cũng là do một số người lợi dụng việc mở rộng dân chủ trong quá trình đổi mới và những khó khăn đang gặp phải đã có hành động cực đoan quá khích, thậm chí tiếp tay cho địch, gây rối nội bộ, nói xấu Ðảng và Nhà nước. Những cách giải thích này không thuyết phục được quần chúng, nhất là vì nó chưa đưa ra được những giải pháp có hiệu quả thiết thực.

Từ tháng 5 năm 1997, những sự biến xảy ra dồn dập hơn, mãnh liệt hơn, và có chiều hướng sử dụng bạo lực từ cả hai phía, để răn đe hoặc để giải quyết những vấn đề đang tồn tại.

Sự xuất hiện của cảnh sát cơ động dường như đã đặt các cuộc biểu tình hợp thức vào tình thế bế tắc. Xu hướng bạo lực ngày càng có khả năng trở thành hiện thực. Sự kiềm chế và tính tổ chức ở những người biểu tình càng giảm sút thì các sự biến xã hội càng khó kiểm soát. Người ta chứng kiến một cuộc khủng hoảng chính trị xã hội thực sự trong nhiều xã và huyện của nông thôn Thái Bình.

Ngày 11 tháng 5 năm 1997, theo lời ước đoán thì có khoảng 2000 nông dân Quỳnh Phụ thuộc trên dưới 36 trong 38 xã của huyện đã tham gia vào cuộc biểu tình từ xã lên tỉnh bằng xe đạp và sau đó ở lại tỉnh 2 ngày 1 đêm, gây ảnh hưởng lớn trong toàn tỉnh. Cũng theo lời kể lại thì trong khi cuộc biểu tình này đang cố gắng thể hiện thái độ nghiêm túc và thận trọng trong việc bày tỏ nguyện vọng của đông đảo nhân dân trong huyện, thì ở trước trụ sở ủy ban nhân dân huyện Quỳnh Phụ, cuộc tập trung của nhân dân nhiều xã trong huyện, cứ đông dần lên vì người các nơi ùn ùn kéo đến, có người ước lượng là có đến 1 vạn (?) người. Khi đám đông đã đến quy mô như vậy, chỉ cần một hành động quá khích là có thể dẫn đến những bùng nổ không sao kiềm chế được. Theo lời người kể lại, thì do cách xử sự thiếu khôn ngoan và không thỏa đáng của một số người đại diện cho quyền lực nhà nước, dân phẫn nộ đã dùng bạo lực, phá trụ sở công an huyện, tấn công bằng gạch đá vào lực lượng an ninh có trang bị xe phun nước và chó béc- giê. Trước 500 công an, với 3 xe vòi rồng, dùi cui lá chắn, dân bảo nhau chuẩn bị nếu bị phun nước thì cả đàn ông, đàn bà sẽ cởi hết quần áo ra tắm. Công an ném 10 quả lựu đạn cay, dân phá hỏng một xe vòi rồng trong tiếng kêu : "thế này thì dân chết mất" lại có tiếng "thà chết còn hơn sống khổ". Công an được lệnh không đánh lại dân. Nhưng khi trời tối, dân phát hiện có công an mặc thường phục trà trộn vào đám đông quần chúng. Thế là diễn ra cảnh bi hài, dân hô: "cứ xem thằng nào đi giày da, sờ vào bụng thằng nào to tức là không phải dân, nhằm vào nó mà nện". Công an bị thương 9, 10 người, dân bị thương vài chục. Công an bị thương được đưa vào bệnh viện, nhưng dân bị thương thì không vào vì sợ bị phát hiện nên khiêng về làng tất.

Dẫn đến cuộc bạo động này là chuyện dân bao vây Viện kiểm soát huyện Quỳnh Phụ đòi thả hai người đánh kẻng tập hợp dân, đã bị bắt. Cuộc xô xát này, cho dù không để xảy ra tử vong song đã là bước ngoặt dẫn đến những sự biến sau này ngày càng bạo liệt hơn, bạo lực nhiều hơn và ngày càng mang tính trả thù hơn là đấu tranh hợp pháp.




Ðiều đáng lo ngại nữa là các huyện khác trong tỉnh đều coi cuộc đấu tranh này của người dân Quỳnh Phụ đã trở thành mô hình cho cách đặt vấn đề và phương thức đấu tranh của họ. Một mặt, những người khởi xướng cuộc khiếu kiện, rồi biểu tình bày tỏ sự nhiệt thành với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, giữ gìn sự trong sáng của Ðảng, bảo vệ sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân do Ðảng và nhà nước phát động. Mặt khác họ kêu gọi tinh thần cố kết cộng đồng làng xã vốn tiềm tàng trong đầu óc của mỗi người dân để buộc mọi người phải tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng theo cách nghĩ và cách làm của họ. Chẳng hạn như : ai không đi biểu tình, khiếu kiện thì tùy, nhưng nhà có người chết đừng có gọi dân khiêng, có cháy nhà đừng gọi người dập lửa. Phương thức đấu tranh ấy, chính là sự quay trở về với "lệ làng", mà buộc "phép vua" trước đây đã phải thua. Một khi mà kỷ cương, phép nước do những cán bộ xã, huyện và cả tỉnh đại diện đã không yên được lòng dân, thì tính tự phát của lệ làng, của đám đông có tổ chức hay không có tổ chức, dẫn đến sự manh động, là điều không thể tránh khỏi.

Bước chuyển từ "đối thoại" sang "đối đầu" đã thực sự chia rẽ một bộ phận lớn nhân dân với chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ trật tự là công an. Xu hướng manh động của những người nông dân mất bình tĩnh với sự tham gia của những trẻ em vị thành niên và những người kém kinh nghiệm xã hội đã được thổi bùng lên bởi các phần tử cực đoan quá khích và những thành phần bất hảo trong xã hội, điều ấy cũng không có gì lạ.

Ví dụ như, người ta kể lại rằng, ngày 8 tháng 6 năm 1997, chừng 300 thanh niên tuổi từ 13 đến 17 đã trói chủ tịch và bí thư xã Quỳnh Hoa, dong lên huyện dưới trời mưa mà không cho đội mũ. Họ phá cổng ủy Ban huyện làm Chủ tịch huyện phải bỏ chạy. Họ la hét và hạ nhục bằng những câu hỏi khiêu khích : vì sao mà "giàu lên nhanh thế", vì sao mà "chóng béo" đến thế.

Khoảng 10 ngày sau là sự kiện lên đến cao trào bằng việc đốt phá đêm 26 rạng 27/6/97 tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ. Rồi sau Quỳnh Phụ, một loạt các huyện khác đã nổ ra đấu tranh dưới nhiều hình thức kể cả biểu tình, khiếu kiện như ở Ðông Hưng (xã Ðông Cường) lẫn tấn công bằng bạo lực vào các cán bộ xã bị coi là phần tử tham nhũng. Người ta cho rằng tại ba xã Thái Thịnh, Thái Tân và Mĩ Lộc của huyện Thái Thụy là đỉnh cao của những cuộc tấn công bằng bạo lực. Phần đông các cán bộ xã bị tấn công đã phải trốn chạy. Những người còn lại đã phải dùng hình thức tự vệ bằng vũ khí và sự hỗ trợ của họ hàng, người cùng xóm gắn bó với họ.

Sau những bùng nổ đó, huyện, tỉnh (và có thể cả Trung ương) đã có những giải pháp, thêm vào đó, khung cảnh khủng bố và sự phá phách của những phần tử quá khích cũng đã làm cho nhiều người phải suy nghĩ lại về mục tiêu và phương thức của những cuộc đấu tranh đang diễn ra. Sự trấn áp những phần tử quá khích và những lời hối lỗi của họ trên màn ảnh truyền hình địa phương được đưa liên tục có thể cũng đã răn đe những hành vi bạo lực, manh động. Trong nhân dân cũng đã có người nhận ra hành động "luồn gió bẻ măng", có thể thấy rằng đám đông đã bị lợi dụng bởi những kẻ cực đoan, những kẻ muốn đục nước béo cò, trả thù cá nhân, thậm chí những hành vi lưu manh, cướp bóc. Tình hình tạm lắng xuống, song những nguyên nhân đẩy tới sự khủng hoảng và bùng nổ vừa qua vẫn còn nguyên, nếu chưa nói là đây đó, nơi này nơi khác được nung nấu thêm ! Màn kịch bạo lực dường như đã đi quá những giới hạn có thể chấp nhận cả từ phía chính quyền lẫn từ phía nông dân, hậu quả xã hội thật nặng nề.

Ðể tỉnh táo giải quyết hậu quả nặng nề này đòi hỏi một sự dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, mổ xẻ phân tích để dám cắt bỏ ung nhọt, thuốc thang bổ dưỡng cho cơ thể xã hội lành mạnh với một đường lối đúng, giải pháp đúng.

Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào đây để giải quyết những mâu thuẫn đã tích lũy nhiều năm ở nông thôn mà không phải sử dụng đến bạo lực ? Ðể trả lời câu hỏi này, việc đánh giá lại những sự biến vừa xảy ra một cách khách quan, tỉnh táo và thực sự cầu thị là tiền đồ quan trọng nhất.

Phải chăng là, không thể quy mọi nguyên nhân của các sự biến trên cho những kẻ quá khích, cực đoan hay những tên lưu manh chỉ thèm trả thù, cướp bóc và đập phá. Bởi lẽ nếu đúng là bọn này thì chúng không có uy tín, không có lẽ phải, không có khả năng tập hợp nông dân trong những cuộc biểu tình hợp pháp, nghiêm túc và đầy ý thức chính trị như vừa qua. Nếu đúng như câu chuyện được kể lại thì với một tập hợp trên dưới hai ngàn người, từ hơn 30 xã trong huyện, tập hợp ở một địa điểm và thời điểm bí mật đã được định trước chắc chắn là một hoạt động có tổ chức chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất. Người ta kể lại rằng họ diễu hành hàng đôi bằng xe đạp lên tỉnh để tránh những trục trặc và ách tắc giao thông do họ gây ra hoặc do hoàn cảnh đưa lại. Cứ khoảng từ 30 đến 50 người lại có một người chữa xe đạp để tránh những trục trặc kỹ thuật. Ðến trụ sở ủy ban tỉnh, họ ngồi thành hàng trên vỉa hè, tuyệt đối không bẻ cây, vứt rác, làm mất trật tự, trị an nơi họ có mặt. Họ kiên nhẫn chịu đựng sự căng thẳng, mệt mỏi trong 2 ngày 1 đêm chỉ để đưa được lá đơn khiếu nại tới tay ông chủ tịch tỉnh. Ðã có biết bao giai thoại về cuộc biểu tình này chỉ để tỏ lòng khâm phục trình độ tổ chức của người lãnh đạo và ý thức tổ chức của những người tham gia. Ở những cuộc biểu tình này tuyệt nhiên không có xung đột, đụng độ nào cho dù có sự hiện diện của cảnh sát dã chiến (chỉ có xung đột ở huyện, xã).

Người ta cho rằng ở các cuộc biểu tình này có sự tập hợp đông đảo các tầng lớp nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh, từ người già, trẻ em, phụ nữ, tới những cựu chiến binh, đảng viên, cán bộ về hưu vốn đã từng lăn lộn, chiến đấu và hy sinh xương máu của mình qua hai cuộc kháng chiến. Nếu thế thì phải chăng, tính quần chúng rộng rãi của cuộc đấu tranh này cho phép nhìn nhận rằng đây là một phong trào xã hội, chứ không phải là những mâu thuẫn cục bộ, càng không là sự phản loạn chống lại chế độ.

Sự tham gia của đông đảo các đảng viên, các cựu chiến binh, những người về hưu, một lực lượng xã hội có trình độ nhận thức chính trị và xã hội tương đối cao trong nông thôn càng giải thích rõ tính chất và quy mô của cuộc đấu tranh của nông dân trong sự biến vừa qua và có lẽ chưa tắt hẳn.

Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực mà điển hình là cuộc đấu tranh chống tham nhũng và sự mất công bằng, mất dân chủ trong nông thôn, lực lượng này có vai trò rất quan trọng. Bởi vì, họ không chỉ là nạn nhân trực tiếp của những tệ nạn cường hào, tham nhũng mà còn là những người có khả năng nhận biết. Chính vì thế, họ dễ trở thành những người khởi xướng và lãnh đạo cuộc đấu tranh mà chúng tôi đã nói ở trên.

Qua tìm hiểu các cán bộ xã, thấy rõ một điều là họ biết rất rõ những ai đứng đằng sau các cuộc tấn công vào bộ máy cán bộ lãnh đạo đương quyền. Nhóm chủ yếu phát động là những cán bộ trước cũng làm cán bộ nhưng nay không còn đương chức nữa. Thuộc về nhóm chủ yếu này ở một số nơi có cán bộ hưu trí, những người tương đối có trình độ cả về học vấn, tổ chức, còn sức lực nhưng thiếu việc làm. Cũng không nên quên rằng, Thái Bình, với đặc điểm đất chật, người đông, có một số lượng rất lớn người đi thoát ly làm cán bộ và nay về hưu. Ðược đảm bảo tương đối về đời sống, và cũng có hiểu biết, có nhiều thời gian những người thuộc nhóm này thường hay đề xuất ý kiến trong đời sống nông thôn.

Cũng chính vì vậy, cách đưa tin của đài truyền hình Thái Bình làm cho người ta nghĩ rằng bọn "côn đồ" xúi giục, nay bọn chúng đã bị bắt và ăn năn hối lỗi và nhận tội thì những người nhẹ dạ cả tin và manh động theo đuôi bọn quá khích đã nhận ra sai lầm. Cách đưa tin đó hình như không đạt được mục đích, mà ngược lại, trong khía cạnh nào đó lại như tích tụ thêm sự phẫn nộ.

Sau 10 năm tiến hành công cuộc Ðổi mới, rõ ràng là đời sống vật chất của mọi tầng lớp nông dân đã được nâng lên, nông thôn đã từng bước chuyển mình. Thái Bình lại càng nổi trội lên với bao lá cờ đầu, bao nhiêu vẻ khang trang, nề nếp. Vậy cái gì đã lôi kéo nông dân vào một cuộc đấu tranh dữ dội và rộng khắp như vậy ? Theo chúng tôi có lẽ không chỉ đơn thuần là lý do kinh tế. Những khiếu kiện kinh tế chỉ là điểm xuất phát khi một số cán bộ xã bị nghi ngờ có hành vi tham nhũng lại tự cho mình cái quyền tự phán xét, tự hợp thức hóa những quyết định đáng nghi ngờ của họ. Những người này tự cho họ là đại diện cho Ðảng bởi họ chính là bí thư hay các đảng ủy viên quan trọng của đảng bộ, tự cho là đại diện cho Chính quyền nhân dân, khi họ là chủ tịch hay các phó chủ tịch, trưởng thôn, tự xem là đại diện cho pháp luật khi họ là chủ tịch hay các thành viên của Hội đồng nhân dân xã. Những người này triệt để sử dụng các thiết chế hiện hành đang bị quan liêu hóa để hợp thức hóa những quyết định của họ thay vì trực tiếp tham khảo, lắng nghe ý kiến của nhân dân, dần dần một bộ phận những người có quyền lực này xa lạ và đối lập với dân.

Một khi mà sự việc đã diễn ra đến tình huống như vậy thì ở những nơi này, nội bộ Ðảng bị chia rẽ vì phe cánh và quyền lợi, mất dần sức sống, không còn uy tín. Chính quyền rơi vào nguy cơ mất mối liên hệ với các tổ chức quần chúng. Giữa dân với Ðảng và Chính quyền mất dần kênh liên lạc vốn có. Người ta phải sử dụng đến các hình thức khiếu kiện vượt cấp để tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề của họ. Khi mọi hình thức đó không đi đến kết quả thì xung đột nổ ra dưới mọi hình thức. Các phần tử cực đoan quá khích có cơ hợi để đưa cuộc đấu tranh nhanh chóng đi đến bế tắc bằng các hình thức bạo lực và sự trả thù.

Hãy dừng lại ở sự kiện xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ, đi vào diễn biến dẫn đến sự bùng nổ để qua đó, chứng minh cho những phân tích nói trên.

Sự việc bắt đầu bằng những đụng độ căng thẳng xung quanh yêu cầu của thanh tra nhân dân xóm 10, thôn Kiến Quan, đòi ông Khương, nguyên xóm trưởng giao nộp hồ sơ sổ sách để kiểm tra mà chưa được đáp ứng. Ngày 24/6/97, trước sức ép của nhiều người, ông Lương Văn Quang, thành viên tổ thanh tra nhân dân xóm đã đánh kẻng họp dân toàn xóm mà chưa có sự đồng ý của người có trách nhiệm. Ðiều này đã dẫn đến tranh chấp, đôi co trong việc lập biên bản và giữ ông Quang tại trụ sở ủy Ban vào ngày 26/6/97. Việc này do chủ tịch Nguyễn Mạnh Hàm và Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm chủ trương.

Bị kích động bởi một lời thách đố của Chủ tịch xã khi nóng giận, dân xóm 10, và sau đó kèm theo là hàng nghìn người từ các thôn xóm khác trong và ngoài xã đã tràn đến bao vây trụ sở xã vào cuối ngày hôm đó. Những hành động quá khích vượt quá giới hạn của cuộc đấu lý đã dẫn đến bạo lực. Ðám đông hàng trăm người trong đó có những người bịt mặt với sự reo hò, cổ súy của hàng nghìn người vây ủy Ban (cỡ chừng vài ba nghìn người, có người cho rằng có tới 6 nghìn người) đã tràn vào trụ sở ủy Ban nhân dân xã, đập phá bàn ghế, tủ công tác, bàn hội nghị, phòng ốc, chậu hoa, cây cảnh, bát đĩa v.v... và săn đuổi cán bộ xã đang có mặt tại trụ sở. (Khi thấy sự việc có chiều hướng nguy hiểm, hệ thống đèn chiếu sáng đã phải vụt tắt, tất cả các cán bộ xã đều đã phải trốn chạy tháo thân).

Thế rồi từ 7h tối ngày hôm đó cho tới rạng sáng ngày hôm sau (chừng 3h30') là một cuộc bạo động của đám đông hàng nghìn người rầm rập trên đường lần lượt đi phá, đốt nhà cửa, lấy tài sản của các cán bộ chủ chốt trong xã.

Trình tự của cuộc đập phá : Thoạt đầu là ủy ban xã, ngay sau đó là nhà chị Ly, liền kề ủy ban (đây là gia đình thường thổi nấu cơm khách, phục vụ ăn uống cho ủy ban xã). Người ta nói rằng việc đập phá nhà chị Ly là để bõ tức vì không tìm thấy ông Chủ tịch Hàm tại đó. Tại nhà này, đám đông đã đốt xe máy phân khối lớn của một cán bộ công an tỉnh biệt phái theo dõi cơ sở. Từ nhà chị Ly, đám đông ầm ầm đi tới xóm 11 dập phá nhà Chủ tịch Hàm. Sau đó, chuyển xuống xóm 6, phá nhà ông Trung, cán bộ quản lý địa chính xã, sang xóm 8, đập phá tài sản nhà ông Lự, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Thái Bình. Tại đây, đã diễn ra cuộc đụng độ quyết liệt giữa thân nhân của chủ nhà với người đi đập phá, cả hai phía đều có người bị thương, đám đông đã bắt đầu nổi lửa đốt từ nhà này trở đi. Tiếp đó đám đông vượt đồng sang xóm 9, xóm 10 để đập phá và đốt nhà ông Hoa, Phó chủ tịch phụ trách nội chính xã, quay trở về gần nhà chủ tịch Hàm để đốt phá nhà ông Ðăng, Chỉ huy trưởng quân sự xã, sau đó tới các xóm khác đốt phá nhà ông Trừ (nguyên Phó chủ tịch ủy ban nhân dân khóa trước, nay là Trưởng ban Tài chính xã) rồi tới đốt phá nhà ông Hứa, Phó chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Ðiểm đốt phá cuối cùng là nhà Bí thư Ðảng ủy Vũ Xuân Chiếm, huyện ủy viên huyện Quỳnh Phụ... Tại đây, đám đông giải tán vào lúc khoảng 3h30' sáng ngày 27/6/1997.


II. Sức dân bị khai thác quá mức, bị sử dụng lãng phí và bị tham nhũng quá mức

Là một tỉnh nông nghiệp, mật độ dân số quá cao và có một thời tỉ lệ phát triển dân số quá lớn. Thái Bình cho đến nay vẫn chỉ trông chờ vào việc trồng lúa. 102.360 ha đất nông nghiệp của Thái Bình đã được thâm canh đến mức tối đa và nhìn chung năng xuất cũng đã đạt đến mức tối đa: 10-15 tấn/ha 1 năm ; tức là khoảng từ 2 cho đến 2,5tạ/sào/vụ. Bình quân đất canh tác mỗi khẩu dao động từ 1 tới 1,5 sào/người. Ước tính năm 1997 trung bình mỗi người dân Thái Bình xuất khẩu không quá 15 đô la, trong đó một phần không nhỏ trông chờ vào xuất khẩu lúa. Ðược mùa nên giá lúa đã rơi mạnh ; giá lúa trung bình tại các chợ là 1.200đ/kg thóc và sau vụ Ðông xuân 1997 Thái Bình còn hàng chục vạn tấn chưa có thị trường tiêu thụ.

Nhìn từ góc độ hộ gia đình, tình hình lúa ít sáng sủa hơn. Theo nhiều người đánh giá, nếu cần mua 200đ thuốc lào cũng phải bán lúa và 5 cân mới mua nổi 1 bao Vinataba (thời báo Kinh Tế, 16/7/1997). Những nguồn thu nhập khác ngoài lúa như chăn nuôi là thấp và ít ỏi. Chúng tôi dẫn ra đây trường hợp một nông dân đã từng tham gia biểu tình ở xã Tây Phong, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Gia đình anh ta 5 người với 7,5 sào ruộng có thể có thu nhập tối đa là:

7,5 sào X 4 tạ = 30 tạ = 3 tấn = 3.600.000đ
2 tạ lợn X 10.000đ/kg = 2.000.000đ
 
Các khoản khác: = 2.000.000đ
 
Tổng cộng: = 7.600.000đ
 

Trong lúc đó, các khoản chi phí chủ yếu là:

7,5 sào X 1 tạ = 7,5 tạ = 1.000.000đ
 
2 tạ lợn X 5.000đ/kg = 1.000.000đ
 
Tổng cộng : = 2.000.000đ
 

Các khoản đóng góp cho chính quyền:
 

Vụ đông : 71,1 tạ = 850.000đ
 
Vụ mùa : 5,7 tạ = 680.000đ
 
Cộng : = 1.530.000đ
 
Tổng cộng : = 4.100.000đ
 
Thu nhập bình quân 800.000đ/người.

Có lẽ đây là một trường hợp không mấy cá biệt, mà có thể xem như khá phổ biến đối với Thái Bình.

Với nguồn thu tối đa là 1.000.000đ/người/năm, người nông dân phải chi cho ăn, mặc, học hành của con cái, chữa bệnh, sửa chữa nhà cửa và vô vàn các khoản khác nữa. Trong lúc đó hệ thống nhu cầu lại được mở rộng, theo kênh truyền thông đại chúng về lối sống đô thị và theo mạng lưới giao thông nối liền nông thôn với đô thị. Ví dụ, nước giải khát chè xanh không còn trong khi xuất hiện "bia Ong" (Thái Bình) cũng như các loại nước có ga khác. Người nông dân trên những thửa ruộng với nhiều mảnh cách xa nhau cũng không thể cày sâu hơn, cuốc bẫm hơn vì họ đã nghiệm ra là càng như thế thì thu nhập của họ càng ít đi. Trong khi đó, đường nhựa và thông tin đại chúng truyền tải liên tục về cho họ những sản phẩm mới và những hình ảnh mới mà họ ít có cơ hội để hưởng dụng chúng. Ðặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục đại học và y tế nhà nước, rất khó để người nông dân có thể hưởng được những thành quả của sự phát triển trong hai hệ thống đó.

Trong lúc đó, người nông dân cũng tận mắt thấy sự đồng đều truyền thống mà họ yêu mến không còn nữa. Nhóm cán bộ xã đã giàu lên nhanh chóng và bắt đầu có một lối sống khác : "chiều chiều họ cưỡi xe dim, đeo vạt, mặt đỏ như ông tiên sư, ra cánh đồng đứng chỉ trỏ". (lời kể của một lão nông, huyện Quỳnh Phụ). Thế rồi vợ con của những cán bộ kiểu này bắt đầu có những đua đòi, kịch cỡm trong lối sống mà bà con lối xóm cho là "hợm của". Và không thể nào lý giải được nguồn gốc của số của cải đó. Trong các khiếu nại, nhiều người nông dân chỉ yêu cầu các cán bộ lãnh đạo xã dạy cho họ biết cách làm thế nào để cũng có thể giàu lên nhanh chóng như cán bộ.

Thành tựu về tăng trưởng kinh tế ở Thái Bình là rõ ràng : người nông dân từ chỗ đói ăn, nhà tranh vách đất nay đã chuyển sang đủ ăn, nhà kiên cố. Tuy nhiên, do hệ thống nhu cầu được mở ra nên từng người cụ thể không cảm nhận được sự tăng trưởng đó. Có chăng là với người già, khi họ ngồi nhớ lại rằng ngày xưa đời sống khổ cực hơn.

Một thành tựu cơ bản của Thái Bình cho đến tận hôm nay là đẩy nhanh các chương trình xã hội. Trong năm năm qua những công trình "Ðiện, đường, trường, trạm" đã là những thành tựu nổi bật nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển xã hội. Tuy nhiên, nếu phát triển các chương trình đó trong bối cảnh của nền kinh tế không phát triển đạt đến mức tương ứng thì sẽ đem lại một sự thụt lùi cả trên bình diện kinh tế lẫn xã hội. Ðiều này thì nhiều lãnh đạo nào cũng có thể hiểu.

Thế nhưng, dường như lãnh đạo Thái Bình muốn thông qua những chương trình xã hội để phần nào đảm bảo lại sự phân phối lại công bằng hơn cho người dân. Có lẽ chưa có tỉnh nào phát triển hệ thống giao thông nông thôn tốt được như Thái Bình: đường lên xã đều được rải nhựa. Hơn thế, Thái Bình còn phát triển cả bốn công trình điện, đường, trường, trạm cùng một lúc. Quả thực điều này đã tạo cho nông thôn Thái Bình một diện mạo rất tươi sáng. Nhìn từ ngoài vào, ấn tượng thật nổi bật. Song nếu đi sâu phân tích sẽ bật ra nhiều vấn đề.

Ðiểm đầu tiên cần hiểu: từ nguồn vốn nào để thực thi các công trình lớn đó ? Không thể từ đâu khác, kể cả nguồn vốn cho việc xây dựng trụ sở, hội trường, nhà tưởng niệm v.v... đều chủ yếu lấy từ sự đóng góp của nông dân. Cùng với nó là từ các nguồn có thể xoay xở được như bán đất cho những người có tiền làm nhà. Ðặc biệt là khoản tiền vay của ngân hàng với hy vọng sẽ trả dần về sau này. Ước tính số tiền nợ vay ngân hàng theo những người được hỏi có thể chiếm 10% tổng số tiền sử dụng để triển khai các chương trình trên. Gánh nặng trả nợ về sau thì rồi cũng đè trên vai người dân chứ còn ở đâu khác. Mà những khoản đóng góp thì rất đa dạng.

Ví dụ : tại xã Tây Phong huyện Tiền Hải, người ta nói với chúng tôi rằng : mỗi con trâu 1 vụ phải đóng 40 kg thóc về tiền giao thông, tức là mỗi chân trâu 10 kg thóc cho 1 vụ. Mỗi đàn vịt từ 30 con trở lên phải đóng thuế trồng cỏ. Còn nhiều khoản đóng góp khác nữa, ví như một cuộc họp phổ biến kiến thức nói về nông nghiệp cũng đòi mỗi gia đình phải đóng góp 7 kg thóc v.v... Những xã càng là tiên tiến, lá cờ đầu, thì sự đóng góp của dân càng nặng hơn. Cũng người nông dân tại xã Tây Phong, Tiền Hải, Thái Bình, người đã tham gia cuộc biểu tình bày tỏ ý kiến trên huyện đã nói ở trên, anh ta cho biết: "theo quy định vụ Ðông xuân 97 gia đình anh phải đóng 7,1 tạ thóc cho hộ 5 người. Nhờ quyết định 279 (**) nên vụ Ðông xuân này hộ chỉ còn phải đóng góp 2,2 tạ thóc mà thôi. Và các gia đình trong xã bắt đầu tổ chức ăn mừng việc "giảm sản". Ở xã là nơi mà sự đóng góp đó đè lên vai người nông dân với tất cả sức nặng của nó. Hầu như tất cả các xã của Thái Bình đều nằm trong tình trạng mang công mắc nợ ngân hàng. Xã nợ chừng 1-2 tỷ là chuyện thường. Tại xã Quyết Tiến huyện Kiến Xương, một xã có khoảng hơn 3000 dân, mức nợ nằm ở khoảng trung bình cũng là chừng 400 triệu. Theo lời bình của một cán bộ xã : "nếu xã nợ chừng 100 triệu trở lại thì còn có thể xoay xở được chứ quá 100 triệu thì sẽ rất nan giải".

Cần nhớ rằng, nội dung đích thực của các chương trình xã hội không phải nằm ở phần cứng của nó, mà là nội dung bên trong cái khung hào nhoáng đó. Chẳng hạn, với trường học thì phần cơ bản phải là đời sống và trí thức các giáo viên để cho họ thực sự là giáo viên chứ không phải là người nông dân có nghề phụ là dạy học ! Với trạm xá thì tay nghề của các cán bộ y tế cùng những trang thiết bị tối thiểu cho họ hành nghề mới là cái chức năng đích thực. Nếu thế thì một câu hỏi được đặt ra : liệu có cần phải xây nhiều trạm xá đến như thế không trong khi đã có một hệ thống giao thông tốt và thuận lợi đến như vậy ? Cũng có nghĩa là cho đến hôm nay, thực chất các chương trình phát triển xã hội cũng mới chỉ hoàn tất bước đầu ở phần dễ thấy nhất và tương đối ít tốn hơn. Ấy thế mà cũng đã kiệt sức. Câu hỏi đặt ra sẽ là, phát triển các chương trình xã hội có kịp mang lại động lực mới cho phát triển kinh tế nông thôn Thái Bình hay không, hay đang là gánh nặng quá sức đối với người dân khi mà bình quân thu nhập của họ chỉ trên dưới xấp xỉ 1 triệu đồng cho 1 người trong 1 năm ? Hậu quả của sự đóng góp quá sức đó là gì, chúng ta đã tìm thấy trong các sự biến vừa rồi. Nói cách khác, theo chúng tôi, đó chính là một trong những nguyên nhân đẩy tới sự biến Thái Bình



III. Cán bộ và cơ chế

1. Về người cán bộ

Ðiều mà mọi người thường giải thích, do cán bộ xã tham nhũng quá đáng, ức hiếp dân để dân không chịu nổi nên tức nước thì vỡ bờ thôi. Trăm sự là đều do cán bộ xã hư hỏng mà ra. Nói vậy cũng có chỗ đúng song cách nhìn nhận ấy không thỏa đáng, và nói cho cùng, cũng chưa đi vào nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự khủng hoảng ở Thái Bình, một điển hình nổi bật nhiều năm của sự nghiệp phát triển nông thôn. Rốt cuộc lại thì những người cán bộ là ai, phải chăng họ chính là những thành viên cấp cuối cùng thực thi mọi đường lối chính sách của Ðảng và Nhà nước? Mà thật ra, với người nông dân ở xã thì Ðảng và Nhà nước cũng là một, nó là hiện diện cho những người có quyền lực đang trực tiếp tổ chức và chi phối đời sống của họ. Ở một khía cạnh nào đó, người cán bộ xã phải gánh trên vai toàn bộ gánh nặng của hệ thống quản lý về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng... Chính họ là người chuyển tải mọi chủ trương đường lối của Ðảng và Nhà nước đến trực tiếp với người dân, nói đúng hơn, đến 80% dân số của cả nước. Không có họ khó hình dung được sự hoạt động của hệ thống quản lý. Cho nên, không thể chỉ có sự phê xét về họ, mà quan trọng hơn, là sự thẩm định lại cái cơ chế đang điều hành họ, đúng hơn, cái cơ chế mà họ được đặt vào, và rồi, bản thân họ góp phần làm cho cái cơ chế ấy vận hành và cũng bị sự vận hành của cơ chế ấy chi phối.

Ðương nhiên, họ phải chịu trách nhiệm với những hoạt động của họ, hành vi của họ, phẩm chất của họ. Không ai có thể biện hộ cho hành vi tham nhũng và ức hiếp dân của những cán bộ xã hư hỏng. Họ phải bị xử lý, người khác sẽ được thay thế vào, và guồng máy tiếp tục được vận hành theo cái cơ chế đã từng chi phối những cán bộ vừa bị xử lý (sa thải hoặc kỷ luật, ví dụ thế). Thế rồi sao nữa ?

Một bộ máy quản lý ở cấp xã cũng đủ lệ bộ như đã quy định từ Trung ương, chỉ có điều, tiền phụ cấp công tác hoặc lương mà họ được hưởng không tương xứng với công việc mà họ phải gánh vác. Ví dụ như, với 280.000đ, một chủ tịch xã chỉ có thể chi phí cho việc đi họp ở huyện, ở tỉnh, giao tiếp, khách khứa (xăng xe, thuốc lá, thuốc lào, giải khát dọc đường, sửa xe, v.v...). Nhưng họ cũng phải sống chứ, phải nuôi vợ con, rồi nhà cửa, giỗ chạp, cưới xin, chữa bệnh, học hành cho con cái v.v... Tiền lấy đâu ra : ấy vậy mà, xem ra, không mấy cán bộ có chức, có quyền ở xã lại chịu sống trong cảnh bần hàn nhưng liêm khiết cả. Nói chung thì, ở những xã vừa bùng lên những vụ khiếu kiện, những vụ biểu tình, những sự đập phá, v.v... các cán bộ xã đều có mức sống tương đối cao so với mặt bằng mức sống chung của dân trong xã (trừ những cá biệt).

Trong cuộc phỏng vấn một ông giáo về hưu tại thị trấn Kiến Xương, người đang đi khắp nơi nộp đơn đòi thành lập Hội chống tham nhũng, thì ông ta chia tham nhũng ra làm ba loại, trong đó loại 2, loại 3 thì chỉ cảnh cáo. Chính ông cũng thừa nhận rằng, các cán bộ xã đã làm việc rất nhiều nhưng phần tặng thưởng cho họ về công lao hoạt động là quá ít ỏi. Cũng có nghĩa là ông mặc nhiên thừa nhận những cái mà những người cán bộ có được cũng một phần là công sức lao động của họ, công sức ấy chưa được Nhà nước bồi hoàn thích đáng, và vì vậy tham nhũng là điều dễ hiểu và khá phổ biến. "Nếu cách chức cả thì lấy ai làm việc", ông ta kết luận !

Cũng có thể thấy rằng, công quỹ được hình thành nên, để trong đó có thu nhập của cán bộ xã, có thể có được từ 3 nguồn (ở những xã không có dịch vụ phát triển) :

- Tiền phần trăm do các bên nhận thầu "lại quá" khi thực thi các công trình phúc lợi công cộng. Khoản tiền này rất lớn và khó xác định.
- Tiền bán đất cho nông dân xây nhà.
- Những khoản thu phí trong các hoạt động sản xuất của nông dân.

Những khoản tiền này được chi để trang trải mọi hoạt động của một bộ máy hành chính rất cồng kềnh, song không được trả đủ lương để tồn tại. Ðấy là chưa nói để chứng minh sự tồn tại của mình là hợp lý, bộ máy này luôn luôn xáo động bằng sự thay đổi nhân sự, bằng sự thăm viếng thường xuyên để chứng tỏ tính chất tập trung tuyệt đối của họ. Phần còn lại sau khi chi phí cho sự hoạt động của bộ máy cồng kềnh đó sẽ thuộc về những người quản lý cấp cơ sở.

Như vậy có nghĩa là khoản thu nhập thêm của cán bộ xã có tính hai mặt. Một mặt, nó là sự trả công cho lao động cường độ rất cao của họ. Mặt khác, nó là sự tước đoạt của cộng đồng. Và do tính chất tuyệt đối của quyền lực hiện hữu, hoàn toàn không có khả năng kiểm soát được về sự tước đoạt này, gắn với sự bất hợp lý của nền hành chính. Sự lạm dụng công quỹ được hình thành nên do những đóng góp nói trên là điều tất yếu, không thể khác được. Và, sự lạm dụng đó rất lớn, chẳng hạn như, người ta nói và chắc là không ngoa, sau hai năm công tác, một trưởng thôn có thể kiếm được 17 tấn thóc. Nói cách khác, cùng với việc sử dụng công quỹ để nuôi một bộ máy quản lý quá cồng kềnh ở cấp xã, để tạo ra sự khang trang cho cả cộng đồng, người cán bộ xã cũng tìm cách làm giàu cho gia đình họ.

Vấn đề đặt ra không chỉ là phẩm chất của người cán bộ xã mà chủ yếu là cơ chế nào đã cho phép họ cái quyền được tạo ra công quỹ đó và được phép sự dụng công quỹ đó. Sự phẫn nộ của nông dân không phải chỉ là những khoản họ phải đóng góp, và còn là, và chủ yếu là sự chi dùng sự đóng góp đó, trong đó có sự tham nhũng như đã phân tích ở phần II.

2. Sự đối đầu giữa cán bộ quản lý và dân

Sự đối đầu giữa cán bộ cấp cơ sở và nông dân là một thực tế rõ nết. Mà những sự biến ở Thái Bình vừa qua đã được phơi bày, cần phải được mạnh dạn chỉ ra. Cần chú ý đến một câu ngạn ngữ phương Tây : "Quyền lực có xu hướng tham nhũng, và quyền lực là tuyệt đối thì tham nhũng là tuyệt đối". Ở cơ sở cộng đồng xã hội nông thôn hiện nay, sự tập trung quyền lực tuyệt đối, trên thực tế là ở trong tay một số người, mặc dù trên danh nghĩa thì là tập thể lãnh đạo của tổ chức Ðảng và Chính quyền.

Trong cuộc phỏng vấn tại nhiều xã trong đợt khảo sát vừa qua của chúng tôi, nhiều bà con nông dân đã thể hiện rõ sự phẫn nộ và quyết liệt với một số cán bộ xã và ngược lại các cán bộ xã cũng có một thái độ như thế đối với những người nông dân biểu tình. Sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai nhóm người này là quá rõ, họ rành nhau quá, biết kỹ về nhau quá. Sau những năm dài cùng tồn tại dựa vào nhau, có lẽ chỉ có họ mới hiểu chính xác thế nào là mối quan hệ giữa người quản lý (nhà nước) và người bị quản lý (nhân dân). Và tuyệt đối họ không có ảo tưởng về nhau. Những ảo tưởng về đối tượng quản lý, nếu có, chỉ bắt đầu xuất hiện tại cấp huyện và những cấp cao hơn chứ không thể nào có được tại cấp xã. Cán bộ cấp xã là những người có tư duy rất cụ thể (và có lẽ đó là nơi đào tạo tốt nhất về quản ý nhà nước hiện nay hơn bất cứ học viện nào).

Bi kịch nông thôn là ở chỗ cả hai nhóm người đang đối diện với nhau đều cùng hướng vào những mục tiêu mà xã hội theo đuổi và cơ chế mà xã hội vận hành để theo đuổi các mục tiêu đó. Chính họ cùng chia sẽ những mục tiêu đó mà không ý thức được về cái giá phải trả để đạt được tới đích. Sự căng thẳng vẫn tồn tại từ rất lâu, nhưng một thời gian có phần mờ đi vì chiến tranh, về sự hy vọng về một xã hội tốt đẹp, trong đó mọi người đều bình đẳng như nhau, sướng khổ như nhau. Khi bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới sau hòa bình, những hậu quả của chiến tranh càng được làm trầm trọng thêm trong sự vận hành cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp đẩy tới sự khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng và kéo dài, đời sống nông thôn lại càng khó khăn gấp bội. Những bước khởi sắc với Nghị quyết 10 và công cuộc Ðổi mới làm cho đời sống nông thôn có chuyển biến mạnh. Tuy nhiên, sau thời gian khởi động, những động lực được tạo ra không còn giữ được sức đẩy như trước nữa, động lực mới thì chưa tạo ra được. Cơ chế vận hành của hệ thống quản lý và bộ máy hành chính càng ngày càng bộc lộ sự bất cập của chúng. Sự bất cập càng kéo dài thì đụng độ giữa người quản lý và đối tượng họ quản lý càng tăng. Những dồn nén không được giải tỏa (những khiếu kiện hợp lý và trong khuôn khổ hiền hòa, chỉ nhận được những thái độ lẩn tránh quanh co hoặc im lặng kéo dài của các cấp từ xã lên đến huyện, đến tỉnh thậm chí đôi lúc cả trung ương) đến một lúc không kềm chế được đã bục ra. Và khi nó đã bục ra thì có một thực tế phũ phàng là : bộ máy quản lý cấp xã nhiều nơi bị vô hiệu hóa hoặc tan rã. Ðiều mỉa mai nhất, chúng thể hiện rõ sự bục vỡ đó ở ngay những nơi đã được đánh giá là chính quyền vững mạnh, đảng bộ bốn tốt ví như ở xã An Ninh, Quỳnh Phụ, Xã Thái Thịnh, Thái Thường của Thái Thụy và xã Tây Phong của Tiền Hải.

Ở những nơi này, sự đối đầu giữa người dân và bộ máy quản lý đã đến cao độ. Và sự đối đầu này hoàn toàn không có cái gì để làm mềm đi cả. Mặc dầu ở những nơi này người ta vẫn học thuộc lòng khẩu hiệu: "Ðảng lãnh đạo, nhân dân quản lý, nhân dân làm chủ". Thế là diễn ra tình huống Nhà nước cấp xã quản lý theo những mục tiêu mà nhà nước cấp trên đề ra. Nhân dân thể hiện sự làm chủ của mình bằng cách nổi lên phản kháng. Tuy nhiên, trong cuộc xung đột đó, theo nhận xét của nhiều người : hoàn toàn không thấy bóng dáng của đảng viên nào đứng ra can ngăn những cơn phẫn nộ của quần chúng, bảo vệ những thành quả đã đạt được cũng như bảo vệ nhân tính của người. Trong các sự biến, nhìn rõ sự đối đầu giữa nhà nước, những người quản lý, và nông dân, những người bị quản lý. Tuy vậy, không thấy có ai ca thán gì về Ðảng, tất cả mọi người vẫn nói rằng : đường lối của Ðảng là đúng đắn ! Gần như mọi người đều nhận định rằng : dân chỉ chống những cán bộ tham nhũng, hư hỏng, không chống lại chế độ.

Ðây là một vấn đề của chính trị học, có lẽ chúng ta cần có sự nghiên cứu thỏa đáng để rút ra bài học về mặt thể chế và về vai trò của Ðảng cầm quyền được hiện diện bằng xương bằng thịt ở tổ chức Ðảng cơ sở và ở người Ðảng viên sống trong lòng quần chúng. Không thể không thấy rằng, sự hiện diện bằng xương, bằng thịt của Ðảng cầm quyền là Nhà nước, là chính quyền ở cơ sở cũng như ở các cấp. Ở một khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa cán bộ cơ sở với dân, cần phân tích đó là sự xa rời quần chúng nhân dân của một số cán bộ xã còn phản ánh ở một chiều cạnh khác của sự bất bình đẳng xã hội mà chính họ là đại diện. Ðó là sự cố tình phô bày một lối sống trái ngược hẳn với đạo lý của đời sống cộng đồng vốn rất đặc trưng cho nông thôn Thái Bình. Người dân Thái Bình chỉ chuyên nghề nông, ít va chạm với thương trường, vì xa các trục giao thông quốc gia và quốc tế nên rất dễ phản ứng với những gì xa lạ, nhất là những thay đổi từ trong đời sống cộng đồng của chính họ. Họ nhìn những người cán bộ xã đang giàu lên nhanh không phải bằng mồ hôi nước mắt của chính họ bằng con mắt nghi ngờ bao nhiêu, thì càng tỏ ra căm uất bấy nhiêu khi chứng kiến sự sa hoa đua đòi và kênh kiệu của những người này. Người dân thể hiện sự căm tức ấy qua cách mô tả những ngôi nhà cao to có trang bị đắt tiền kiểu thành phố, những chiếc xe máy đời mới nhất, đến cách ăn diện của các bà vợ các cán bộ xã đi liền với những câu nói hợm hĩnh, rồi đồ trang sức ở những đứa con cán bộ v.v... Rõ ràng là cùng với sự phẫn nộ trước những bất công và tham nhũng về kinh tế trước sự lộng quyền mất dân chủ về chính trị và xã hội, mô hình văn hóa của làng quê cổ truyền đụng độ gay gắt với những khác lạ của lối sống của những người mới phất lên do khai thác được cơ may, quyền lực mà họ đang có. Chiều cạnh của văn hóa này của các sự biến có lẽ sẽ giải thích thêm cho những màn kịch đốt nhà và đập phá của cải đầy bạo lực mà người không theo dõi sự kiện này từ đầu khó cảm nhận được.

Quả thật, cán bộ xã, người đại diện cho hệ thống quản lý nhà nước ở cấp xã cùng với cơ chế quản lý đang vận hành đã bộc lộ những yếu kém và bất cập để dẫn đến những vụ đụng độ gay gắt, chuyển thành những bùng nổ xã hội khiến chúng ta buộc phải nhìn nhận trở lại một cách nghiêm khắc về vấn đề quản lý nhà nước. Cũng cần phải lưu ý rằng những sự kiện Thái Bình lại nổ ra vào lúc chúng ta vừa có nghị quyết Trung ương 3 về nhà nước và cán bộ !

3. Những giải pháp bất cập từ nhiều phía

Nếu diễn biến của tình hình đã vượt quá tầm kiểm soát của những người tổ chức và tham gia vào cuộc đấu tranh, thì đối với chính quyền các cấp trên, đây cũng là một sự kiện hết sức bất ngờ. Cách nhận định địch - ta trong tư duy chính trị trước đây đã có ảnh hưởng không nhỏ tới các giải pháp tình thế. Nghi vấn về sự xúi giục hay âm mưu phá hoại của địch đã loại trừ khả năng xử lý kịp thời những vụ tham nhũng và vi phạm dân chủ trong nông thôn của một số cán bộ xã và có thể dập tắt ngay từ đầu cái mầm của sự rối loạn không đáng có này. Nó cũng làm chậm lại việc củng cố Ðảng và các tổ chức quần chúng trong nông thôn. "Không cắt bỏ ngay cái bọc ung thư, để cho nó di căn rồi mới lo cứu chữa thì quá chậm", đó là một nhận xét chí lý của một cán bộ có trọng trách ở cấp tỉnh nay đã về hưu, đã nói với chúng tôi !

Các quyết định của tỉnh cho dù là đúng, song vì không sát với thời điểm của nó nên có khi còn gây căng thẳng thêm cho tình hình. Chỉ thị "279" yêu cầu chính quyền địa phương chỉ được thu 7 khoản như quy định của tỉnh, được công bố vào cuối tháng 6.97 đã làm bế tắc thêm cho các giải pháp nếu đâu đó cán bộ cố tìm cách tháo gỡ sự đụng độ. Các công trình đã được ký kết và khởi công. Các khoản tiền đã được vay để tạm ứng trước, nay không còn khả năng thanh toán vì đã mất các nguồn thu. Tỉnh đã phải ban bố tiếp một quyết định khác yêu cầu đình chỉ mọi khoản thu và hứa cung cấp kinh phí để giải quyết những bế tắc hiện tại. Những yêu sách của quần chúng là bức xúc và phần lớn những chính quyền cấp xã không sao thỏa mãn, vì nếu thỏa mãn chúng thì phải phủ định chính mình : Quyền lực, lợi ích, uy thế. Tình hình dẫn tới chỗ bế tắc. Hệ thống quyền lực ở xã lung lay và không còn chỗ dựa trong dân. Vai trò lãnh đạo bị mờ nhạt, vô hiệu hóa.

Tình trạng thiếu lãnh đạo trong nông thôn lập tức được biến thành cơ hội cho các lực lượng xã hội khác xuất hiện chi phối đời sống xã hội nông thôn. Cái cơ cấu làng họ lâu nay tưởng như chìm sâu trong ký ức giờ đây lại sống lại và trở thành chỗ dựa mạnh mẽ cho đời sống thôn xã. Hình ảnh những cán bộ xã Mỹ Lộc (Thái Thụy) phải co cụm trên nóc nhà mình với sự bảo vệ của những người trong gia tộc và thôn xóm phải chăng là điều cảnh báo cho sự bất lực của bộ máy quản lý mà lâu nay chúng ta cứ ngỡ như là vững chãi và sự phục hồi sức mạnh hệ thống thân tộc, làng họ cổ truyền. Sự khôi phục những sinh hoạt gia tộc và làng xã truyền thống trong những năm gần đây có mối liên hệ gì không với những sự biến này ? Năm 1993, các đảng viên thuộc hai chi bộ ở xã Thụy Hải (Thái Thụy) đã tổ chức dân 2 thôn cầm vũ khí đánh nhau vì tranh chấp đất. Người ta cũng rất tích cực trong việc đòi tách hợp tác xã và đòi chia lại ruộng đất giữa các thôn. Những câu chuyện về "chi bộ họ ra", về sự kế nghiệp các bí thư và chủ tịch đã nghỉ quản lý bằng con, cháu của họ vốn không chỉ xảy ra gần đây mà nó đã tiềm tàng từ lâu trong cộng đồng làng xã khi đi vào hợp tác hóa để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Việc khôi phục các quan hệ và sinh hoạt văn hóa truyền thống ấy chính là cái giá đỡ có hiệu quả cho quá trình chính trị hóa đời sống nông thôn hiện nay. Nó có thể có ích cho công cuộc đổi mới hiện nay, nếu nó được hướng theo những mục tiêu chung của đất nước và thời đại. Trong tình thế ngược lại nó sẽ là lực cản to lớn cho việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân và sự đi lên của đất nước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cần lưu ý rằng : "làng là tế bào của xã hội Việt Nam. Xã hội Việt Nam là sản phẩm của tự nhiên tiết ra từ quá trình định cư và cộng cư của người dân Việt trồng trọt. Hiểu được làng Việt là có trong tay cơ sở tối thiểu và cần thiết để tiến lên hiểu xã hội Việt nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung trong sự năng động lịch sử của nó, trong ứng xử cộng đồng và tâm lý tập thể của nó, trong các biểu hiện văn hóa của nó, cả trong những phản ứng của nó trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó"(***).

Chúng ta đang chứng kiến "những phản ứng của làng xã" trước những hình thái mà lịch sử đương đại đặt vào nó.

Mô hình văn hóa "làng họ" ăn sâu vào tâm thức và thế ứng xử của người nông dân, đặc biệt là nông dân đồng bằng Bắc Bộ. Trong các thiết chế của làng xã cổ truyền, làng - họ là mối liên hệ đặc trưng. Hệ thống thân tộc, các phe giáp, mối quan hệ người cùng làng đã phần nào tạo ra đời sống ổn định, trung hòa bởi những đối kháng trong xã hội. Cái cơ cấu làng - họ với những thiết chế cổ truyền ấy tưởng đã bị xóa bỏ để thay vào đó thiết chế quyền lực mới : đảng và chính quyền ở xã. Trong thực tế, ảnh hưởng của thiết chế bền vững xưa kia không tan biến mà chỉ chìm sâu xuống mà thôi. Một khi uy lực và tín nhiệm của bộ máy quyền lực hiện thời bị lung lay thì sức mạnh của thiết chế cũ lại trỗi dậy. Không thấy điều này, sẽ không tìm ra được những giải pháp mang tính bền vững trong việc xây dựng nông thôn mới, lại là nông thôn đang hướng tới sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Thổi bùng lên ngọn lửa từ lâu âm ỉ là thiếu sót của một bộ phận khá lớn những cán bộ cấp cơ sở và những xử lý không đúng của các cấp trên của họ. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc xử lý và kỷ luật một số cán bộ có sai lầm khuyết điểm mà thôi thì chưa đủ. Ðiều ấy là tuyệt đối cần thiết để yên lòng dân, song chưa giải quyết được tận gốc những nguyên nhân tích lũy, sự bùng nổ lại tiếp tục có thể diễn ra. Vì, tiếp theo sau sự sa thải hoặc kỷ luật những cán bộ có sai lầm, những người mới được bổ nhiệm sẽ lại tiếp tục hoạt động trong cái cơ chế vốn là nguyên nhân của sự tham nhũng, lộng quyền, thiếu dân chủ, không đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực thi chúc năng nhà nước tại cơ sở thì con đường dẫn đến sai lầm của lớp cán bộ mới này là không tránh khỏi.


IV. Dân chủ và dân trí, sự vi phạm quyền dân chủ tại nông thôn

Nếu khởi đầu từ cấp cơ sở đi lên, thì thật sẽ hết sức ngạc nhiên tại sao người nông dân lại có thể chịu đựng lâu đến như thế sự mất dân chủ. Trước hết là vấn đề ruộng đất. Nếu việc trả lại ruộng đất cho người nông dân tự quản là nền tảng lớn nhất và sơ khởi cho bất cứ loại hình dân chủ nào thì hiện thực ở Thái Bình là, người nông dân thường không biết được thật chính xác số đất họ có và với số đất đó họ phải nộp những khoản gì, bao nhiêu và trên văn bản nào. Tất cả đã được tính sẵn trong một quyển sổ bởi ai đó và hộ gia đình ở nhiều nơi không được giữ quyển sổ đó, mà là do trưởng xóm giữ. Chẳng thế mà sau những sự biến, ở nhiều nơi cán bộ xã (có thể dưới sự chỉ đạo của cấp trên) đã lẳng lặng đến tuyên bố hoặc gạch bỏ những khoản mục mà dân phải đóng góp và đã được ghi vào sổ. Bà con kháo nhau, nếu cứ đà này thì vài năm là chúng ta có thể giàu ! Bằng những chuyện thật mà cứ tưởng như đùa này, quyền làm chủ đất đai, ước mơ nghìn đời của người nông dân trên thực tế đã bị vi phạm nghiêm trọng và khiến cho mọi sự bàn cãi về thành tích dân chủ của một nông thôn mới quả là một điều xa xỉ. "Nhà nước bảo thuế ruộng loại A nộp 19kg/sào, xã thu hơn 30kg/sào, dân cứ phải đóng. Một gia đình có 3 mẹ con, một đứa con đang đi học lớp 7, một đứa học lớp 4. Bà mẹ không may ngã gẫy chân. Thế là tiền thuốc men ngốn hết số thóc trong nhà, chưa thể đóng thuế được, chỉ còn 20kg thóc trong nhà, xã cũng vào vét sạch thì còn dân với chủ gì nữa". Ðấy là lời của một cán bộ lão thành ở Thái Bình nói với chúng tôi.

Tiếp đó, những dấu hiệu thông thường của nền dân chủ, dù chỉ là hình thức, càng khó có thể nói là được tôn trọng. Một việc đơn giản nhất là bầu trưởng xóm, một chức vụ được quy định bởi nhà nước và quy trình bầu cũng được quy định bởi nhà nước, một nhân vật sống sát nhân dân nhất, thì ngay việc bầu cử này người dân cũng không thật có quyền. Hay đúng hơn là, người dân có quyền bầu ra một ông trưởng xóm làm đúng những gì cấp trên quy định. Nếu không ông trưởng xóm đó sẽ được bãi miễn, để thay bằng một ông trưởng xóm khác dễ bảo hơn (xã Tây Phong, Tiền Hải). Do vậy, khó có thể nói nền dân chủ mà chúng ta triển khai có gì khá hơn nền dân chủ làng xã vốn đã tồn tại nghìn đời ở nông thôn Việt Nam mà ngay cả chính quyền đô hộ thực dân Pháp trước năm 1945 cũng ngần ngại không dám xóa bỏ. Ở một chiều cạnh khác của việc thực thi dân chủ là ở tinh thần luật pháp. Ở đây cũng lại thể hiện một sự bất cập. Một số cán bộ tin chắc rằng quyết nghị của Hội đồng nhân dân xã có thể là cơ sở pháp lý tuyệt đối cho mọi hành vi của họ. Vì thế, chỉ cần thao túng Hội đồng nhân dân là họ có ngay được những văn bản pháp lý cho những quyết định mất dân chủ của họ. Còn ở phía một bộ phận nhân dân thì dường như chế độ dân chủ bằng pháp luật chỉ có tính hình thức. Họ chỉ tin vào một chế độ dân chủ trực tiếp, nơi mà họ có thể trực tiếp phát biểu ý kiến và nguyện vọng của họ. Họ đã làm nên một sự kiện gần như cuộc "đảo chính" khi họ giằng micro từ tay một cán bộ (xã Thái Thịnh, tháng 6/97) để đọc bản đề nghị phế truất vị chủ tịch xã do chính họ bầu ra trước đây và đề cử một người khác. Những cách quan niệm khác nhau và bất cập về dân chủ trong xã hội không thể không dẫn tới những rối loạn chức năng của tổ chức bộ máy nhà nước ở cấp xã, cái cần làm thì không làm, cái không được phép thì cứ làm bừa.

Một đặc trưng khác của nền dân chủ là sự kiểm soát hữu hiệu hoạt động của nền hành pháp. Và không thể nói người nông dân, hay thanh tra nhân dân được bầu ra, lại có thể làm được điều nàỵ Một kiểm soát hữu hiệu phải có thông tin, ấy vậy mà, chưa có cơ chế nào quy định để người dân nắm được thông tin cần thiết. Với cơ chế "Ðảng lãnh đạo" được hiểu một cách thô thiển theo kiểu đảng viên phải nắm tất cả mọi chức vụ cho nên sự kiểm tra cũng bị những người nhân danh Ðảng thao túng. Như vậy thì sự dân chủ đã bị vi phạm trắng trợn. Sự kiện Thái Bình diễn ra với đủ mọi lời đồn đại lan tràn, nhưng truyền thông của tỉnh trong một thời gian dài đã không hề cung cấp bất kỳ một thông tin nào về việc "vậy thì cái gì đang lan truyền trong toàn thể các xã ở Thái Bình". Còn khi được phép đưa tin thì lại đưa theo một sự lựa chọn phiến diện, không phản ảnh được tình hình, không đáp ứng được đòi hỏi của dân. Ðể nói về cái quyền sơ đẳng của nhân dân nhiều nơi bị xâm phạm thô bạo, xin dẫn ra đây một ví dụ : Một trường hợp đẻ con thứ ba (xã Tây Phong, Tiền Hải) bị phạt theo quy định. Nhằm nhanh chóng thu tiền phạt, xã đã tự mình đặt tên cho con của gia đình bị phạt và dẫn đến trường hợp rất hy hữu trong lịch sử : đứa bé có hai tên, 1 tên chính do chính quyền đặt và tên khác do bố mẹ đặt cho!

Quyền dân chủ bị xâm phạm, điều ấy quá rõ, điều ấy cũng lại gắn với vấn đề dân trí. Có một sự thật phải chấp nhận, khi trình độ dân trí chưa được nâng cao thì việc thực thi dân chủ không tránh khỏi những lệch lạc. Ðiều dễ trông thấy nhất là chủ nghĩa bình quân trong dân chủ làng xã, trong quan niệm dân chủ đó, phần lớn mọi người vẫn chỉ chia sẻ một giá trị là sự chia đều cho tất mọi người những quyền lợi về vật chất và về tinh thần mà xã hội đạt được và người ta có quyền duy trì và thực hiện các quyền đó. Người ta không chấp nhận rằng có những người khác lại có khấm khá hơn họ. Và sự phát triển dân trí trong những năm vừa qua chỉ đủ đưa những người lãnh đạo phong trào nông dân, trong trường hợp tốt nhất là tư tưởng thành lập một Hội chống tham nhũng. "Bọn tham nhũng như lũ chuột. Hội chống tham nhũng là con mèo. Chỉ cần có hơi mèo là chuột sợ". Khởi đầu với lý lẽ như thế, rõ ràng là dễ đi vào lòng người, sẽ được những kẻ quá khích cổ vũ cho cái triết lý trong cơ chế hiện nay thì cứ Chí Phèo là được tất. Và đám đông bùng lên. Những người cầm đầu với ý định rất tốt đẹp ban đầu không còn làm chủ được tình hình nữa.

Còn bên kia, các cán bộ chính quyền, nhất là cấp xã, cũng có cùng mặc cảm dân chủ ấy, ngần ngại hành động. Và họ rất hận với chỉ thị 279 giảm đóng góp của dân xuống. Vì theo họ, đấy là chỉ báo cho cái sự dân chủ Chí Phèo phát triển.

V. Những nhu cầu khác chưa được đáp ứng

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, đảm bảo dân chủ nâng cao dân trí, xã hội hiện đại cần đến một loạt các thiết chế xã hội để đảm bảo sự hiểu biết lẫn nhau tốt hơn giữa con người trên căn bản tôn trọng cá nhân. Xã hội hiện đại còn là một sự hài hòa giữa lao động và sử dụng hợp lý thời gian nhàn rỗi, đặc biệt là khi có sự tăng trưởng kinh tế.

Chúng ta đứng trước hiện tượng là Thái Bình là một trong những tỉnh khá nhất của nông thôn Bắc Bộ, kinh tế có lên tuy chưa nhiều so với tiêu chuẩn hiện đại nhưng là rất cao so với những ngày trước năm 1945. Học vấn cũng vậy. Ấy thế mà việc tạo ra những điều kiện để sử dụng thời gian nhàn rỗi là gần như con số không. Thanh niên sau khi được học hành đã không thể tìm được một cách giải trí tích cực nào ngoài việc giải trí thụ động là xem tivi. Trong khi đó tuổi kết hôn lại được nâng cao đến thừa sinh lực. Thanh niên cũng không có chỗ để thực thi trình độ hiểu biết của mình do phải tuân thủ truyền thống "trọng xỉ", dù cho đã có văn hóa, nhưng xem ra vẫn còn "trẻ quá" để thay thế các bậc cha chú do vậy họ cũng chưa có chỗ để sử dụng. Trong các đám đập phá ở nông thôn Thái Bình người ta quan sát thấy chủ yếu là thanh niên, với những mô hình hiệp khách du nhập một cách bập bõm qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng là điều để chúng ta suy nghĩ kỹ hơn về nguyên nhân.

Ðối với các nhóm tuổi khác, đặc biệt là phụ nữ, tình hình còn bi kịch hơn. Ruộng đất còn ít, nghề phụ không có, người ta không biết sử dụng lao động của mình làm gì. Những truyền thống và tập tục văn hóa ngày xưa thì phần lớn đã bị tiêu vùi trong những năm tháng trước đây. Việc phá đình chùa cuối cùng ở Thái Bình là vào những năm đầu thập kỷ 80. Một sự trống trải trên bình diện văn hóa tinh thần, cái dù sao đi chăng nữa cũng đào tạo cho con người ta một nhân cách, dù là nhân cách cam chịu, sự trống trải đó sẽ dẫn tới những hệ lụy mà không phải lúc nào người lãnh đạo cũng cảm nhận được. Và không có cái gì dễ thay thế nó. Văn hóa mới, hướng nhiều về vật chất, lại cao hơn mức mà kinh tế nông thôn Thái Bình cho phép.

Những tổ chức, thể chế xã hội được xây dựng nên trong những năm tháng đã qua. Ðoàn thanh niên, hội phụ nữ, hội phụ lão v.v... dần dần rơi vào trạng thái phần nào hữu danh vô thực. Những tổ chức này có một thời đã đóng một vai trò rất tích cực nhưng giờ đây hình như không còn sức hấp dẫn người dân nữa. Tất cả những thiết chế xã hội này đều vẫn đang hoạt động, nhưng có vẻ như nó đã không đáp ứng được mục tiêu : tạo một sự đồng cảm xã hội.

Trong khi đó, những loại hình tổ chức khác bắt đầu được lập ra : các hội từ thiện, các tổ chức phi chính phủ v.v... lại cũng chưa phát huy được tác dụng bao nhiêu. Người ta dường như cũng cảm nhận rằng những loại hình thức tổ chức đó cũng chẳng đáp ứng được gì cho nhu cầu tinh thần và giao tiếp xã hội của người dân vì vẫn là những con người cũ làm những việc đó.

Do vậy, một mặt người dân tiêu chỗ tiền phụ trội ít ỏi có được của họ vào ma chay, cưới xin và những cái hủ tục khác nữa như uống rượu hoặc đánh số đề. Và mặt khác, tâm linh họ lại hướng mạnh về tôn giáo tín ngưỡng. Có thể thấy ở nông thôn tất cả các bà, các chị từ 30 tuổi trở lên đều chăm chỉ tham gia lễ chùa hoặc đi nhà thờ đều đặn.

Nên chỉ riêng quan sát ngôi chùa ở nông thôn thì có thể thấy thiết chế này trong bối cảnh hiện nay là trở nên rất hữu ích cho người dân nông thôn : thỏa mãn phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần, rèn luyện tình người cho con người. Hơn thế, nó còn là nơi cưu mang cho những cuộc đời bất trắc, cái mà ở thời nào cũng có. Ðặc biệt là với một nông thôn mà không có gia đình nào không có người phải nằm xuống trong cuộc chiến tranh. Không phải ngẫu nhiên mà phần lớn các sư giữ chùa làng là những người phụ nữ có số phận dở dang, trong số đó có nhiều người trở về sau những năm tháng chiến đấu trong trong hàng ngũ thanh niên xung phong, chống Mỹ cứu nước.

Và nhà thờ Thiên chúa giáo cũng đang hoạt động tích cực như một lực lượng cứu rỗi linh hồn. Họ có đủ đức tin và nguồn tài chính để đi vào trong quần chúng. Ðiều này thật đáng phải suy nghĩ.

Kết luận

Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Khi cái nhọt đã bục vỡ, nếu biết cách xử lý, nỗi đau sẽ giảm nhẹ đi rất nhiều và phần cơ thể nhiễm khuẩn sẽ lành mạnh trở lại. Ðiều ấy là dễ hiểu song không dễ chấp nhận, không dễ có một thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật với một sự dũng cảm mổ xẻ, phân tích để tìm ra đúng nguyên nhân. Nếu không tìm ra đúng nguyên nhân của sự kiện, chỉ dừng lại trên bề mặt của hiện tượng, đối phó bị động và tạm thời bằng những giải pháp chắp vá, thì nhất thời có thể tạm yên được sự bùng nổ, nhưng cái đẩy tới sự bùng nổ thì vẫn còn nguyên, thậm chí còn nung nấu thêm.

Hơn nữa, sự kiện Thái Bình không là ngẫu nhiên và duy nhất. Cái đáng ngạc nhiên - nếu có ai đó có sự ngạc nhiên - thì tại sao lại xảy ra đúng ở Thái Bình, lá cờ đầu của sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, cái xót xa là ở những điểm nóng nơi dân đòi hạ bệ hoặc bắt dẫn lên huyện cán bộ Ðảng và chính quyền xã mà không gặp sự phản kháng nào của Ðảng viên, mà những nơi ấy lại vừa được tuyên dương là đảng bộ vững mạnh ! Sự kiện Thái Bình có những nguyên cớ ngẫu nhiên, đặc thù, song vấn đề nông dân trỗi dậy đòi quyền lợi về kinh tế, về chính trị, về xã hội thì không còn là cá biệt và ngẫu nhiên chỉ xảy ra ở Thái Bình. Do đó, giải quyết đúng sự kiện Thái Bình cũng chính là giải quyết đúng vấn đề nông thôn, nông nghiệp, nông dân hiện nay.

Vai trò của Tổng bí thư Lê Duẩn


Nhìn lại vai trò của ông Lê Duẩn (kỳ 1)

Ông Lê Duẩn
Ông Lê Duẩn giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam gần 30 năm
Lê Duẩn (1907-1986), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại Bắc Việt và ở Việt Nam sau 1975, khi hai miền thống nhất.
Vì nhiều lý do, như nhiều tài liệu của phía Việt Nam chưa được giải mật, cho đến hôm nay giới nghiên cứu vẫn chưa biết được hết mức độ ảnh hưởng của ông Lê Duẩn trong các chính sách của Việt Nam mấy chục năm qua.
Nhưng gần đây nhiều tài liệu, ở cả dạng ấn hành chính thức hoặc chuyền tay, đã cung cấp thêm thông tin có ích về vai trò và di sản của Lê Duẩn tại Việt Nam.
Theo giáo sư Stein Tonnesson, University of Oslo ("Le Duan and the Break with China", 2001), Lê Duẩn là một trong những người miền Nam cảm thấy bị lừa vì việc chấp nhận một giải pháp thỏa hiệp.
Làm cách mạng
Sinh ra ở Quảng Trị, Lê Duẩn tham gia “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội“ năm 1928 và là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.
Năm 1931, ông chính thức bắt đầu sự nghiệp cách mạng khi được bổ nhiệm làm Ủy viên ban tuyên huấn xứ ủy Bắc Kỳ.
Cuối năm đó, ông bị bắt và bị kết án 20 năm tù, nhưng năm 1936, được trả tự do sau khi phong trào Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp và ra ân xá cho tù nhân chính trị tại Đông Dương.
Lê Duẩn bị bắt lần thứ hai năm 1940, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo.
Các nhà tù thực dân thập niên 1930-40 đã trở thành các “đại học cách mạng” nơi có việc tuyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin và tuyển mộ người cho Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những năm ngồi tù này đã tác động mạnh đến Lê Duẩn và đưa ông trở thành nhà cách mạng cứng rắn và không ngại thử thách.
Sau khi ra tù năm 1945, ông trở thành thành viên trong chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khi chiến tranh tái tục tháng 12-1946, Lê Duẩn được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau này là Trung ương Cục miền Nam) cho đến năm 1954, năm xảy ra các sự kiện Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva về Việt Nam và Đông Dương được ký kết.
Hòa hay chiến?
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định vào thời điểm Hiệp định Geneva được ký, nhiều cán bộ kháng chiến miền Nam đã rất thất vọng.
Hiệp định Geneva 1954 khiến nhiều người không hài lòng
Sau khi tình thế trở nên rõ ràng là cuộc bầu cử toàn quốc mà Hiệp định Geneva hứa hẹn sẽ không xảy ra, Lê Duẩn thúc giục Hà Nội chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
Nhưng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản (từ 1951 đã đổi tên là Đảng Lao Động) không muốn thông qua phương án này.
Theo giáo sư Pierre Asselin, của Đại học Chaminade, Honolulu, người viết một tiểu luận gần đây nói riêng về vai trò của Lê Duẩn, đã tìm cách giải thích cho sự miễn cưỡng của ban lãnh đạo Bắc Việt lúc đó.
Thứ nhất, sau hội nghị Geneva và việc chia đôi Việt Nam, Bắc Việt thực hiện chiến dịch cải cách ruộng đất và tập thể hóa. Nhưng chiến dịch này hóa ra có nhiều vấn đề hơn dự tính. Thứ hai, lực lượng vũ trang Bắc Việt chưa kịp hồi phục sau tám năm đánh Pháp.
Thứ ba, Hà Nội không muốn khiêu khích sự can thiệp của Mỹ. Vào lúc này, nhiều người trong Đảng Cộng sản chấp nhận quan điểm của Bắc Kinh và Moscow rằng Mỹ sẽ không can thiệp quân sự vào miền Nam nếu không bị khiêu khích và sự sống còn của chính phủ Sài Gòn không bị đe dọa.
Cuối cùng, Đại hội lần thứ 20 của Đảng CS Liên Xô năm 1956 tán thành chính sách “chung sống hòa bình” của Nikita Khrushchev. Theo chính sách đó, các nước cộng sản không nên tìm kiếm đối đầu quân sự với phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế với khối tư bản.
Theo giáo sư Pierre Asselin ở Việt Nam, Moscow không chỉ hy vọng Bắc Việt không mở lại giao tranh, mà – cùng với Bắc Kinh – còn thúc giục Hà Nội mở lại hội nghị Geneva để giải quyết khác biệt với chính quyền miền Nam và tránh chiến tranh.
Không muốn rạn nứt với các đồng minh bằng việc công khai bác bỏ chiến lược mới của Moscow và ủng hộ đấu tranh vũ trang. Hà Nội, ít nhất vào lúc này, không chịu thúc đẩy chính sách vũ trang vượt qua giới tuyến 17.
Sau Phiên họp lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương tháng Tám – Chín 1956, Tổng Bí thư Trường Chinh bị buộc từ chức sau những sai lầm của chiến dịch cải cách ruộng đất.
Ông Hồ Chí Minh tạm thời giữ chức lãnh đạo đảng, nhưng chỉ cho đến khi tìm ra một ứng viên thích hợp cho vị trí này.
Cuối năm ấy, vài tuần trước Phiên họp lần 11 của Ban Chấp hành, ông Lê Duẩn gửi ra Hà Nội Đề cương cách mạng miền Nam, một trong những tài liệu quan trọng nhất của Cách mạng Việt Nam sau 1954.
Tài liệu này sau đó được trình bày và bổ sung tại một cuộc họp của cán bộ miền Nam ở Phnom Penh đầu tháng 12-1956, trước khi ông Lê Duẩn chính thức đệ trình cho ban lãnh đạo đảng ở Hà Nội.
Sau khi thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đồng ý một sự gia tăng hạn chế hoạt động quân sự ở miền Nam, một quyết định sau đó được Bộ Chính trị thông qua.
Kỳ 2: Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực

Ông Lê Duẩn
Trong các lãnh đạo cộng sản, ông Lê Duẩn được xem là người có kinh nghiệm hoạt động lâu nhất ở ba miền và ở tù lâu nhất
Tháng 2-1951, diễn ra Đại hội lần thứ Hai của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu việc Đảng Cộng sản ra công khai sau khi đã tuyên bố “tự giải tán” vào tháng 11-1945.
Cũng tại Đại hội Hai tổ chức ở Tuyên Quang, Đảng Cộng sản thông qua quyết định đổi tên thành Đảng Lao Động.
Năm 1957, Đảng Lao động Việt Nam điều ông Lê Duẩn ra Hà Nội và chọn ông làm quyền Tổng Bí thư và vào Thường vụ Bộ Chính trị.
Quyết định đề bạt khá bất ngờ này phản ánh lo ngại ngày càng gia tăng của Đảng về tình hình ở miền Nam.
Sau này, viết trong tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (tháng Bảy 1969), nhà cách mạng miền Nam Trần Văn Giàu xác nhận giai đoạn 1957-59 là “những ngày đen tối nhất” cho phong trào cách mạng ở miền Nam.
Nghị quyết 15
Tuy vậy, mặc dù cho phép gia tăng vũ lực một cách hạn chế ở miền Nam, chính sách của Đảng Cộng sản lúc này không xem việc đẩy mạnh bạo lực cách mạng là ưu tiên. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 14 vào tháng 11-1958, Ban Chấp hành TƯ không xem xét tình hình ở miền Nam, mà đề ra kế hoạch ba năm cho phát triển kinh tế và văn hóa ở miền Bắc. Kế hoạch sau đó được Quốc hội và Bộ Chính trị thông qua.
Ông Lê Duẩn không tham dự các buổi họp bàn này. Một tháng trước đó, Bộ Chính trị cử ông vào miền Nam để đánh giá tình hình. Khi quay về Hà Nội tháng Giêng 1959, cùng đi với Lê Duẩn là nhiều bí thư đảng bộ ở miền Nam, trong đó có Hai Xô, Trần Lương và Võ Chí Công.
Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường vận chuyển vũ khí và người từ Bắc vào Nam
Tại phiên họp lần thứ 15 của Ban Chấp hành TƯ, những người này đã mô tả về “phong trào đấu tranh của đồng bào miền Nam chống Mỹ - Diệm” và thúc giục Ban Chấp hành TƯ ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang.
Theo nhận định trong một bài viết gần đây về Lê Duẩn của giáo sư Pierre Asselin, Đại học Chaminade, Honolulu, báo cáo của ông Lê Duẩn và các đồng chí miền Nam “nắm bắt cảm giác thất vọng của những người chiến đấu và ủng hộ cuộc cách mạng ở miền Nam.”
“Họ cũng thể hiện sự gấp rút trong lòng những người kháng chiến miền Nam muốn có phản ứng trước sự ủng hộ ngày càng tăng của Mỹ dành cho chính quyền Sài Gòn.”
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 kết thúc và ra nghị quyết, trong đó một mặt vẫn nhấn mạnh cách mạng ở miền Nam “có khả năng hoà bình phát triển”, nhưng mặt khác, chuẩn bị theo phương hướng “khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm.”
Nghị quyết 15 sau này được xem là nền tảng chỉ đạo cho công cuộc vũ trang ở miền Nam vào cuối thập kỷ 1950.
Quyết định tái tục đấu tranh vũ trang ở miền Nam được quyết định tại Hội nghị Trung ương 15 tổ chức tháng Giêng 1959, nhưng chỉ được chính thức công bố một tuần sau việc chính phủ tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59 vào tháng Năm.
Hà Nội cũng đồng ý chính thức đóng góp cho mặt trận ở miền Nam bằng việc gửi quân và tiếp viện. Ngày 19-5, đoàn tiếp vận mang bí số 559 được thành lập để “mở đường tiếp vận cho mặt trận phía nam.” Tháng Tám năm ấy, đơn vị quân miền Bắc đầu tiên lên đường vào Nam qua tuyến vận tải dọc dãy Trường Sơn (‘đường mòn Hồ Chí Minh’).
Có thể nói nghị quyết 15 là một thắng lợi cho những lãnh đạo cách mạng miền Nam, trong đó có Lê Duẩn. Khi Bộ Chính trị thông qua nghị quyết này, vẫn còn có nhiều người trong Ban Chấp hành TƯ phản đối. William Duiker (trong quyển ‘Hồ Chí Minh’, 2000) nhận xét đa số lãnh đạo trong Đảng “đồng ý rằng đấu tranh vũ trang có thể là cần thiết nếu mọi lựa chọn khác đã thất bại.” Tuy nhiên, vào lúc thông qua nghị quyết 15, nhiều người ở miền Bắc không tin rằng các “lựa chọn” khác đã được cân nhắc kỹ, và cảm thấy chưa chín muồi để chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang.
Pierre Asselin cho rằng “nếu không có sức ép lớn của miền Nam lên ban lãnh đạo miền Bắc, thì Nghị quyết 15 – quyết định tái bắt đầu chiến sự sau sáu năm gián đoạn – đã không được thông qua.”
Tổng Bí thư chính thức
Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ Ba vào tháng Chín 1960. Nghị quyết đại hội kết luận cách mạng Việt Nam sẽ đồng thời thực hiện hai mục tiêu: “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” và “giải phóng miền Nam.”
Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ Ba từ ngày 5 đến 10-9-1960
Tại Đại hội Ba năm 1960, ông Lê Duẩn chính thức được bầu làm Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản
576 đại biểu dự đại hội đã chọn Lê Duẩn làm tổng bí thư và là người đứng đầu Bộ Chính trị.
Vì sao lại là ông Lê Duẩn, mà không phải đại tướng Võ Nguyên Giáp, người được quốc tế biết đến nhiều nhất chỉ sau ông Hồ Chí Minh?
Theo giải thích của ông Bùi Tín trong quyển Hoa xuyên tuyết, ưu thế của ông Lê Duẩn là vì “một tiêu chuẩn tất nhiên hồi ấy, ở tù lâu năm, một bằng cấp cần thiết để được giao quyền cao chức trọng, vì từ đó được coi là được thử thách nhiều hơn, đáng tin cậy hơn.”
Hoàng Tùng, trong bài viết năm 2002 trên Tạp chí Cộng sản, cũng nói Lê Duẩn là người "hoạt động cách mạng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam lâu dài nhất, thời gian ở tù lâu nhất" và có "quan hệ rộng với các đồng chí thuộc cả hai thế hệ trong những năm hoạt động bí mật."
Tuy nhiên, “nhược điểm” ở tù ít của ông Giáp không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến việc ông Duẩn được chọn.
Tính chất của các mục tiêu đề ra ở Đại hội khiến Lê Duẩn trở thành một ứng cử viên thích hợp hơn. Thứ nhất, niềm tin của ông Lê Duẩn vào phương thức phát triển Sô viết và các nguyên tắc kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” (Nghị quyết Đại hội Ba.) Thứ hai, và quan trọng hơn cả, thời gian hoạt động của Lê Duẩn ở miền Trung và Nam Việt Nam thể hiện kiến thức và uy tín có thể giúp mục tiêu “giải phóng miền Nam” và điều hòa sự hợp tác giữa cán bộ hai miền.
Ralph Smith (trong quyển “An International History of the Vietnam War”, 1983) cũng ghi nhận thêm một chi tiết: thành công của ông Lê Duẩn ở Đại hội Ba chỉ là một phần trong sự tái tổ chức cơ cấu lãnh đạo mà sẽ kéo dài ở Bắc Việt trong cả một thập niên sau đó.
 [Lúc này] quanh Lê Duẩn vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam.

Pierre Asselin
Ralph Smith chỉ ra rằng các thay đổi trong bộ máy nhà nước đã được loan báo ngày 15-7-1960 vào cuối phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới bầu ra. Ông Phạm Văn Đồng tiếp tục là thủ tướng, với năm phó thủ tướng (trong đó có Võ Nguyên Giáp và Phạm Hùng); nhưng ông Trường Chinh không còn là phó thủ tướng mà chuyển sang làm chủ tịch Quốc hội. Những người thân cận của ông cũng bị đưa ra khỏi chính phủ, trong đó Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương không còn có mặt trong Bộ Chính trị.
Tại Đại hội Ba, một Bộ Chính trị mới 11 người được hình thành gồm các ông: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và Hoàng Văn Hoan. Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng được bầu là thành viên dự khuyết.
Pierre Asselin ghi nhận ban đầu sự kiểm soát của ông Lê Duẩn đối với công việc của Đảng Lao động và chính phủ còn hạn chế.
“Xung quanh ông vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, phong độ và được quần chúng yêu mến hơn, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam dẫu rằng Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết 15.”
Kết quả là khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.
Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao mặc dù Nghị quyết 15 đã được thông qua từ năm 1959, nhưng ngay cả sau Đại hội Ba năm 1960, vị tân Tổng Bí thư cũng chần chừ chứ chưa thúc ép ban lãnh đạo thực hiện ngay nghị quyết này. Ông Hồ Chí Minh và nhiều lãnh đạo khác cảm thấy còn nhiều vấn đề cản trở việc vạch ra một chiến lược cụ thể, chẳng hạn tác động có thể có đối với Moscow, Bắc Kinh và Washington.
Tuy nhiên, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao động nhanh chóng thay đổi. Chỉ sau vài năm kể từ lúc trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn đã xác lập uy quyền tối thượng tại Bắc Việt.
Kỳ 3: Cuộc đấu tranh trong nội bộ

Ông Lê Duẩn
Trong thập niên 1960, nhóm của ông Lê Duẩn phê phán 'chủ nghĩa xét lại hiện đại'
Như phần hai của loạt bài này đã nói, khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.
Một câu chuyện minh họa cho ảnh hưởng có mức độ của ông Lê Duẩn thời kì đầu được Thượng tướng Trần Văn Trà kể lại trong quyển Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng (1992).
Một ngày của năm 1959, ông Trần Văn Trà nghe bản tin của BBC về cuộc chạm súng giữa một trung đội quân Việt Nam Cộng Hòa và nhóm quân của những người kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Theo bản tin, hai bên rút đi sau hai giờ giao tranh mà không có thương vong. Ông Trà rất ngạc nhiên và kết luận hoặc bản tin của BBC sai lạc, hoặc khả năng tác chiến của những cán bộ kháng chiến miền Nam cần được cải thiện.
Ngày hôm sau, đi cùng một người bạn, ông Trà đến gặp ông Lê Duẩn và nói cần đưa cán bộ tập kết vào Nam để tăng cường đào tạo cho các đồng chí ở đấy. Ông Duẩn được cho xem đề nghị gửi 100 cán bộ trẻ từ Bắc vào Nam.
Ông Lê Duẩn ngẫm nghĩ rồi nói sẽ khó thực hiện vì Bộ Chính trị chưa quyết. Khi ông Trà nhấn thêm, ông Duẩn hỏi liệu có giảm số lượng được không.
Con số mới đưa ra là 50. Ông Duẩn lại bảo ông sẽ tự chịu trách nhiệm nếu con số nhỏ hơn nữa. Cuối cùng, họ đồng ý về con số 25 người.
Tuy vậy, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao Động Việt Nam sau đó bị phá vỡ.
Chiếm ưu thế
Những nghiên cứu gần đây đã cho biết rõ hơn làm thế nào ông Hồ Chí Minh mất dần ảnh hưởng trong tiến trình ra quyết định của Đảng Lao Động kể từ đầu thập niên 1960.
Ảnh hưởng của ông Hồ Chí Minh trong tiến trình ra quyết định của đảng thập niên 1960 bị suy giảm
Nói như William Duiker, trong cuốn Hồ Chí Minh (2000), vai trò của ông Hồ ngày càng bị hạn chế ở tư cách “một nhà ngoại giao kỳ cựu và cố vấn cho chính sách ngoại giao, đồng thời làm tròn hình ảnh người cha tinh thần của nhân dân và linh hồn của cuộc cách mạng.” Uy tín cùng mối quan hệ rộng rãi – chẳng hạn, ông Hồ có quan hệ hữu hảo với Mao Trạch Đông – khiến nhóm lãnh đạo trẻ hơn trong Đảng Lao Động Việt Nam, dù muốn hay không, cũng không thể loại hẳn ông ra khỏi tiến trình chính trị và ngoại giao.
Dù vậy, tính đến thời điểm khi Mỹ chính thức đổ quân vào miền Nam năm 1965, vai trò của ông Hồ Chí Minh ở trong đảng chủ yếu chỉ còn mang tính lễ nghi.
Một trong những người thân nhất của ông Hồ, ông Võ Nguyên Giáp, cũng bị cô lập sau này. Đối với dư luận quốc tế đương thời, Võ Nguyên Giáp là người anh hùng thứ hai, chỉ sau ông Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Nhiều người trong và ngoài Việt Nam thừa nhận ông là kiến trúc sư tạo nên thắng lợi lẫy lừng ở Điện Biên Phủ, và với quân đội miền Bắc, vị đại tướng có uy tín lớn.
Sau việc ký kết Hiệp định Geneva 1954, Lê Duẩn và nhiều người khác ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam, trong khi ông Giáp thuộc nhóm chủ trương kiềm chế và thận trọng.
Ông Giáp, giống như ông Hồ, chấp nhận chủ trương “chung sống hòa bình” mà Liên Xô đưa ra lúc bấy giờ, và đồng thời tin rằng phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước khi nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
 Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo trung thành.

Pierre Asselin
Thái độ này của tướng Giáp đặt ra một thách thức lớn cho ông Lê Duẩn. Nhưng cuối cùng, ông Lê Duẩn đã giảm bớt được ảnh hưởng của ông Giáp trong bộ máy lãnh đạo của đảng. Việc cô lập tướng Giáp – cùng nhiều đảng viên cao cấp khác – đóng vai trò quan trọng cho việc tìm hiểu ông Lê Duẩn vì nó cho thấy người anh hùng trên chiến trường chưa hẳn là người chiến thắng trên chính trường.
Trong tiểu luận “Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an Independent Vietnamese State”, trình bày lần đầu ở hội nghị quốc tế về Việt Nam học ở Hà Nội năm 1998, Pierre Asselin nhận xét: “Giống như Mao và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng.”
“Ký ức về Hiệp định Geneva năm 1954 cũng có thể đã khiến Lê Duẩn tin rằng để cách mạng thành công, ông phải loại bỏ hết những ai không tin vào chiến thắng bằng mọi giá.”
Nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là một phần tiền đề tạo nên cái gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng.”
Tranh cãi tư tưởng
Hồi ký “Tử tù tự xử lí” của Trần Thư, người bị dính vào vụ được quen gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, mô tả không khí lúc bấy giờ là “tâm lý chủ chiến bao trùm xã hội miền Bắc” và “nếu có ai chủ trương chung sống hòa bình và thi đua hòa bình giữa hai miền thì cũng chẳng dám nói ra.”
Mâu thuẫn giữa nhóm của ông Lê Duẩn và những người chỉ trích đạt đỉnh cao ở Hội nghị TƯ 9 năm 1963 và sau đó, tăng tốc với đợt bắt giữ nhiều người ở Hà Nội vào năm 1967.
Chuyến thăm Hà Nội của Chủ tịch Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ (bên trái), năm 1963 đánh dấu việc hai nước xích lại gần hơn
Tháng Giêng 1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội và ra một tuyên bố chung phản ánh quan điểm của Liên Xô và ca ngợi chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất.”
Nhưng sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai nhóm tạm gọi là “thân Liên Xô” và “thân Trung Quốc” trong đảng Lao Động căng thẳng hơn. Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm cho tuyên bố chung của Novotny và bị thay bằng ông Xuân Thủy.
Sử dụng tư liệu giải mật của Đông Đức, Martin Grossheim, trong bài nói về “chủ nghĩa xét lại” ở Bắc Việt, đăng trong tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, dẫn lời sứ quán Đông Đức ở Hà Nội năm 1963 nói các vị trí chủ chốt ở Bộ Ngoại giao, Thông tấn xã…đã được giao cho các cán bộ “theo sát đường lối Trung Quốc.”
Đây là các biện pháp chuẩn bị cho chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ, đến Hà Nội tháng Năm 1963. Chuyến thăm đưa Hà Nội đến gần hơn Trung Quốc, với tuyên bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào cộng sản quốc tế.
Tư liệu giải mật cho biết sứ quán các nước Đông Âu có quan điểm gần Liên Xô như Đông Đức, Hungary và Tiệp Khắc, trong năm 1963, đã báo cáo rằng báo chí ở miền Bắc ngày càng phản ánh quan điểm “thân Trung Quốc.”
Sứ quán Đông Đức tháng Tám năm ấy kết luận “các nhân tố thân Liên Xô” trong đảng Lao Động đã bị cô lập một cách có hệ thống.
Đến tháng Chín, một bài báo của ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong đó, tác giả nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng.
Phía Đông Đức lúc bấy giờ kết luận bài báo của ông Lê Đức Thọ là “một sự tấn công trực diện nhắm đến các đồng chí chia sẻ quan điểm thân Liên Xô,” và là một bước lớn trong sự chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 sắp tiến hành.
Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của đảng Lao Động ở Hà Nội diễn ra cuối năm 1963 trong bối cảnh vừa xảy ra cuộc đảo chính giết chết tổng thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, đã tạo nên câu hỏi có nhân cơ hội này để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở miền Nam hay không. Đồng thời, cuộc cãi vã giữa Liên Xô và Trung Quốc trên trường quốc tế ngày càng căng thẳng, đặt Hà Nội trong tình cảnh khó xử, vì đảng Lao Động hiểu rằng để đạt mục tiêu thống nhất đất nước, họ sẽ phải dựa vào hai đồng minh này.
Tại Hội nghị TƯ lần thứ 9, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam.
Sau Hội nghị TƯ 9, nhóm do ông Lê Duẩn đứng đầu tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Xô, dưới thời Khrushchev, cổ vũ, nhưng Trung Quốc thì chỉ trích).
Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của ông Lê Đức Thọ, được đăng sau Hội nghị TƯ 9, có sự thừa nhận rằng một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm…những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn ở Hội nghị TƯ 9.
Ông Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị TƯ 9.
Sứ quán Đông Đức khi ấy có được trong tay nội dung của các lớp học này, theo đó, các học viên phải hiểu sâu sắc sự khác biệt giữa “chủ nghĩa Mác - Lê chân chính” và “chủ nghĩa xét lại.”
Nhà nghiên cứu Martin Grossheim nhận xét chiến dịch chỉnh huấn này “không chỉ để đối phó các quan điểm bất đồng trong đảng, mà còn là công cụ tuyên truyền để chuẩn bị cho tinh thần của người ở miền Bắc trước diễn biến chiến tranh leo thang.”
Diễn biến 1967-68
Những tranh cãi trong nội bộ đảng không dừng lại ở năm 1963-64 mà sẽ tiếp tục trong giai đoạn 1967-68.
Ban đầu, vì lo ngại sẽ đánh mất sự hỗ trợ của Liên Xô, nhóm của ông Lê Duẩn thận trọng không đưa ra các tuyên bố công khai phản ánh thái độ bài Liên Xô và thân Mao. Vì lẽ đó, dự thảo nghị quyết của Hội nghị TƯ 9 ban đầu đã kèm cả đoạn văn lên án trực tiếp Khrushchev, nhưng do yêu cầu của Lê Duẩn, đoạn này được bỏ đi.
Tuy nhiên, Khrushchev mất chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1964, quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, và miền Bắc bắt đầu bị đánh bom năm 1965 – những diễn biến này đã đưa Hà Nội và Moscow gần nhau hơn. Kể từ đó, ông Lê Duẩn và các đồng minh cảm thấy đủ tự tin để theo đuổi chiến dịch loại bỏ chủ nghĩa xét lại một cách công khai và gay gắt hơn.
 Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng trí thức có vai trò quan trọng trong xã hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức

Sophie Quinn-Judge
Nghiên cứu gần đây nhất về sự kiện này, được Sophie Quinn-Judge công bố trên tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, ước lượng trong sự biến 1967-68, khoảng 30 nhân vật cao cấp bị bắt, và có lẽ có tới 300 người tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí luận, giáo sư, văn nghệ sĩ và phóng viên truyền hình được đào tạo ở Moscow. Một trong những người bị bắt đầu tiên là Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, bị bắt tháng 7-1967 và bị tống giam.
Cần nói rằng người ta vẫn còn biết rất ít về quá trình ra quyết định của Đảng Cộng sản Việt Nam mấy chục năm qua.
Riêng trong vụ án xét lại 1967-68, không một ai liên lụy được mang ra xét xử. Cho đến thập niên 1990, một số người còn sống và gia đình người đã khuất vẫn gửi các thư và thỉnh nguyện xin phục hồi danh dự. Và như Sophie Quinn-Judge nhận định, “cho đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn công bố rất ít các tài liệu về việc ra quyết định ở cấp cao hơn từ thư khố của chính họ.”
Có nhiều cách diễn giải khác nhau về sự kiện năm 1967-68.
Tài liệu có tiêu đề “Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối” do Đảng Cộng sản phổ biến năm 1994, cáo buộc ông Hoàng Minh Chính và nhiều người dính líu vụ án chống Đảng là đã nắm một biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung và định gửi ra ngoại quốc, đồng thời họ bị cho là thu thập tài liệu để tiến tới một chương trình hoặc phác thảo đối lập để chống đối Đảng.
Trong khi đó, nhiều người bị tù thời kì ấy cho rằng một nguyên nhân của “vụ án chống Đảng” là vì ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ uy tín của ông Võ Nguyên Giáp. Chia sẻ phân tích này, Judith Stowe, trong bài “Revisionism in Vietnam” (1995) nói ông Võ Nguyên Giáp “là đối tượng chính của chiến dịch bài trừ khuynh hướng xét lại.”
Pierre Asselin, trong bài viết về Lê Duẩn, nói thêm “do quá nguy hiểm nếu công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến đội ngũ ủng hộ vị tướng, đặc biệt những người thân cận và trung thành nhất trong hàng ngũ cấp cao của Đảng và chính phủ.”
Sophie Quinn-Judge lại cho rằng vụ án chống Đảng 1967-68 thể hiện một cuộc đấu tranh tư tưởng, chứ không đơn thuần mang tính cá nhân, trong nội bộ đảng.
“Đó là cuộc cạnh tranh giữa [một bên là nguyện vọng] thống nhất dân tộc (trong khuôn khổ liên minh yêu nước), phát triển khoa học và tiến bộ kĩ thuật với [phía bên kia là] khát vọng cách mạng của quần chúng và sức mạnh biến đổi của cách mạng bạo lực. Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng trí thức có vai trò quan trọng trong xã hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức.”
Kỳ 4: Một di sản gây tranh cãi

Ông Lê Duẩn
Ông Lê Duẩn giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam gần 30 năm
Sau kết quả của điều gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, cán cân quyền lực trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghiêng hẳn về phía ông Lê Duẩn.
Những người ủng hộ quan điểm của ông Lê Duẩn được đề bạt và trở thành một phần quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo.
Các đồng minh
Sự trợ giúp mà ông Lê Duẩn nhận được từ ông Lê Đức Thọ trong suốt tiến trình thâu tóm quyền lực là vô cùng quan trọng.
Tham gia cách mạng từ những năm 1920, ông Lê Đức Thọ trải qua nhiều năm trong tù. Khi được thả năm 1945, ông được gửi vào miền Nam và làm phó cho ông Duẩn trong suốt giai đoạn xung đột giữa Việt Minh và Pháp. Quan hệ giữa hai người này sẽ có một ảnh hưởng sâu sắc trong đảng. Khi ông Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Đức Thọ được cử làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, một vị trí mà theo William Duiker, được nhanh chóng “biến thành bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên.”
Pierre Asselin nói thêm rằng ông Lê Duẩn “không thể củng cố uy quyền một cách hiệu quả như đã làm nếu không có sự ủng hộ của ông Lê Đức Thọ; sự trung thành và trợ giúp của người này tỏ ra cần thiết để thanh lọc ban lãnh đạo ở Hà Nội.”
Một người đóng vai trò lớn trong cuộc chiến Việt Nam là đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Cho đến giữa thập niên 1960, miền Bắc chỉ có hai đại tướng bốn sao là ông Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh) và ông Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị).
Một số chuyên gia nước ngoài như Douglas Pike đã ghi nhận sự cạnh tranh và khác biệt trong tư tưởng quân sự giữa hai vị tướng này.
Ông Lê Đức Thọ
Ông Lê Đức Thọ được xem là đồng minh thân cận nhất của ông Lê Duẩn
Trong một bài viết năm 1966, tướng Giáp nói cuộc xung đột ở miền Nam là một cuộc chiến kéo dài và rằng chiến lược quân sự có thể mất nhiều năm để đạt thắng lợi. Ông nói ông không tin vào “các trận đánh sử dụng đơn vị chính quy lớn vì điều này có lợi cho chiến lược của kẻ thù.”
Tướng Thanh ngay lập tức có phản ứng. Trong bài viết đăng ở tạp chí Học Tập, tướng Thanh cho rằng chiến lược tấn công ở miền Nam là con đường đúng dẫn đến thắng lợi và nói thêm rằng lập luận của những người chỉ trích là “không logich.”
Một trong những lý do đưa ông Lê Duẩn và ông Nguyễn Chí Thanh trở thành đồng minh gần gũi là vì ngay từ đầu, hai người cùng quan điểm rằng con đường dẫn đến thắng lợi ở miền Nam phụ thuộc vào quân sự.
Gần đây hơn, trong bài viết năm 2002 về vai trò của những người gốc miền Nam trong cuộc chiến mang tựa đề “Why the South Won the American War in Vietnam,” Robert Brigham ghi nhận tướng Giáp “từ lâu đã chỉ trích tư tưởng quân sự của tướng Thanh, và ông công khai bày tỏ nghi ngờ về hiệu quả của chiến lược tấn công của tướng Thanh...Ông Võ Nguyên Giáp ngày càng trở nên thận trọng và thực tiễn trong cuộc chiến chống Mỹ. Một số người nói điều này rốt cuộc khiến ông đánh mất uy quyền chính trị.”
Ông Lê Duẩn hiểu rằng việc giảm uy thế của tướng Giáp có thể tạo ra chỉ trích và chống đối. Vì thế, nói như lời của chuyên gia Pierre Asselin, “bằng cách đề bạt và tạo điều kiện cho sự nghiệp của tướng Nguyễn Chí Thanh, ông Lê Duẩn thành công trong việc tạo nên một thần tượng mới trong quân đội.”
Mặc dù đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967, nhưng quan điểm của ông, rằng cuộc chiến nhân dân không thể thắng lợi nếu thiếu hỗ trợ của các đơn vị chính quy lớn, tiếp tục giữ ảnh hưởng ở Hà Nội. Từ cuối 1965 đến khi chiến tranh kết thúc năm 1975, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính quy được đưa từ miền Bắc vào Nam.
Bằng cách giảm ảnh hưởng của những người như ông Hồ Chí Minh và tướng Giáp, và đề bạt những người trung thành, ông Lê Duẩn đã tạo ra một cơ cấu lãnh đạo mà những niềm tin và nguyên tắc lãnh đạo của nó để lại ảnh hưởng sâu sắc ở Việt Nam.
Thời hậu chiến
Cuối năm 1976, tại Đại hội Bốn, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Lê Duẩn tái đắc cử chức Tổng Bí thư . Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công và Chu Huy Mân. Ba ủy viên dự khuyết là Tố Hữu, Võ Văn Kiệt và Đỗ Mười.
Nói về những người cộng sản giai đoạn hòa bình lập lại, David Elliott, trong quyển sách được đánh giá cao The Vietnamese War (2003), nhận xét những thành viên cách mạng còn sống đến phút cuối cuộc chiến “thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là những người đủ khả năng đưa VN đi tiếp trên đường phát triển.”
Sau chiến thắng là những khó khăn thời hậu chiến
“Họ đã từng thể hiện sự dũng cảm phi thường, thậm chí anh hùng. Nhưng họ cũng đã học những thói quen để sống còn mà giờ đây kiềm chế sự phát triển của một hệ thống cởi mở hơn thời hậu chiến...Quan trọng nhất, niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn mọi quyền lợi cá nhân đã dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân, và thường trở thành cớ cho việc lạm dụng quyền lực của những cán bộ, những người coi thường quy tắc pháp trị tư sản và cho rằng mục tiêu cách mạng có thể biện minh cho phương pháp.”
Pierre Asselin, trong tiểu luận về Lê Duẩn, đã nói thay nhiều người khi cho rằng “dưới thời Lê Duẩn, ít thay đổi tích cực nào xảy ra ở Việt Nam giai đoạn sau khi thống nhất.”
Tháng Bảy năm 1986, trước lúc diễn ra Đại hội Đảng lần thứ Sáu, ông Lê Duẩn qua đời. Sự ra đi này mở cánh cửa cho quan hệ gần hơn với Bắc Kinh – do ông Lê Duẩn sau này đã trở thành biểu tượng của sự không đồng thuận về nhiều điểm với Trung Quốc – và sau đó, với các chính phủ Tây phương, trong đó có Mỹ.
Cũng từ 1986, việc đề cử ông Nguyễn Văn Linh lên làm tân Tổng Bí thư, và chính sách Đổi mới, đã đánh dấu sự chấm dứt của thời kì lãnh đạo đất nước kiểu Stalin ở Việt Nam.
Ở đây, những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam cũng có thể được xem là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời, hơn là giống quá trình perestroika đang diễn ra khi đó dưới thời Gorbachev.
Một tác giả, Seweryn Bialer, viết về Liên Xô giai đoạn sau khi Stalin qua đời và Khrushchev lên kế nhiệm: “Đó là giai đoạn xôn xao, có phản ứng sẵn sàng hơn trước các sức ép cả có thật lẫn được mong chờ, một giai đoạn có tiềm năng cho phép nới rộng sự tham gia chính trị. Sự kế nhiệm, bên cạnh tầm quan trọng tự nhiên của nó, cũng là chất xúc tác cho các sức ép và khuynh hướng vốn từ lâu tồn tại bên trong xã hội nhưng đã không có cơ hội được bày tỏ và nhận diện.” Những diễn biến ở Việt Nam sau khi ông Lê Duẩn qua đời gần với những gì đã xảy ra sau cái chết của Stalin hơn là thời Gorbachev.
 Niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn quyền lợi cá nhân dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân.

David Elliott, trích trong quyển The Vietnamese War
Giai đoạn nắm quyền của ông Nguyễn Văn Linh, giống như thời Khrushchev, cũng chấm dứt đột ngột để Đảng có thể bổ nhiệm một lãnh đạo khác ít “cấp tiến” hơn, thận trọng hơn.
Có thể đánh giá thế nào về cuộc đời và di sản của ông Lê Duẩn?
Với cương vị Tổng Bí thư, vai trò chính của ông Lê Duẩn cần được thừa nhận trong những quyết sách của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam.
Mặc dù miền Bắc đã nhận nhiều viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, các nghiên cứu gần đây – như của Ilya Gaiduk, Chen Jian, Mari Olsen – cho thấy Hà Nội duy trì sự tự chủ trong cách tiến hành chiến tranh chống Mỹ. Tư liệu mới cho thấy trong từng thời kì, cả Bắc Kinh, Moscow và Hà Nội đều có sự bực bội và nghi ngờ lẫn nhau. Dưới thời ông Lê Duẩn, Đảng Cộng sản hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc để đạt mục tiêu, nhưng không phải là con rối trong tay hai cường quốc.
Các tài liệu chính thống ở Việt Nam hiện nay đều dành sự ca ngợi vẹn toàn cho ông. Tuy nhiên, ẩn đằng sau những hàng chữ chính thống ấy còn là những sự tế nhị khác.
Cuối những năm 90, có quyển hồi ký của ông Trần Quỳnh – nguyên thư ký riêng của ông Lê Duẩn và sau này là Phó Thủ tướng.
Tập sách này không được lưu hành chính thức. Nội dung sách hoàn toàn ca ngợi ông Lê Duẩn, nhưng có thể cũng chính vì giọng văn quá ca ngợi này, cuốn sách – vô tình hay cố ý – đã khơi lại những tình cảm u uất trong nhiều người. Đáng lưu ý, tác giả nói một mục đích khi viết sách là để chống lại hành động “làm lu mờ bôi nhọ hình ảnh của Lê Duẩn.”
Nếu quả thật, như ông Trần Quỳnh cáo buộc, rằng “sau khi Lê Duẩn qua đời, những người lãnh đạo đất nước, những người trước đó đã ca ngợi Lê Duẩn, không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đã cố ý hay vô tình để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô hơn,” thì là vì sao?
Trong giai đoạn làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu khắp mọi nơi. Vì thế, như chuyên gia Pierre Asselin chỉ ra, sự nghi ngờ của ông Lê Duẩn lớn đến mức ông “dựa vào chỉ một vài cá nhân trong việc tìm lời khuyên và chuyên môn.” Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà từ 1986, công thức cân bằng vùng miền (Bắc – Trung – Nam) đã được dùng khi xét đến ba vị trí lãnh đạo nhà nước ở Việt Nam. Những bất mãn về sự tập trung quyền lực trong tay vài người đã là một trong các nguyên nhân dẫn tới việc phân bổ quyền lực rộng hơn sau 1986.
Stein Tonnesson, trong lời giới thiệu cho tư liệu “Lê Duẩn and the Break with China” (2001), nhận xét ông Lê Duẩn “là lãnh đạo có quyền lực lớn thứ hai ở Việt Nam trong thế kỷ 20.” Quyền lực ấy đã được sử dụng thế nào có lẽ là câu hỏi lớn mà bất kì nghiên cứu nào trong tương lai đều sẽ muốn tìm một câu trả lời đầy đủ.
 Nhìn lại vai trò của ông Lê Duẩn (kỳ 1)

Ông Lê Duẩn
Ông Lê Duẩn giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam gần 30 năm
Lê Duẩn (1907-1986), Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1960 cho đến khi qua đời năm 1986, có một ảnh hưởng chính trị rất lớn tại Bắc Việt và ở Việt Nam sau 1975, khi hai miền thống nhất.
Vì nhiều lý do, như nhiều tài liệu của phía Việt Nam chưa được giải mật, cho đến hôm nay giới nghiên cứu vẫn chưa biết được hết mức độ ảnh hưởng của ông Lê Duẩn trong các chính sách của Việt Nam mấy chục năm qua.
Nhưng gần đây nhiều tài liệu, ở cả dạng ấn hành chính thức hoặc chuyền tay, đã cung cấp thêm thông tin có ích về vai trò và di sản của Lê Duẩn tại Việt Nam.
Theo giáo sư Stein Tonnesson, University of Oslo ("Le Duan and the Break with China", 2001), Lê Duẩn là một trong những người miền Nam cảm thấy bị lừa vì việc chấp nhận một giải pháp thỏa hiệp.
Làm cách mạng
Sinh ra ở Quảng Trị, Lê Duẩn tham gia “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội“ năm 1928 và là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.
Năm 1931, ông chính thức bắt đầu sự nghiệp cách mạng khi được bổ nhiệm làm Ủy viên ban tuyên huấn xứ ủy Bắc Kỳ.
Cuối năm đó, ông bị bắt và bị kết án 20 năm tù, nhưng năm 1936, được trả tự do sau khi phong trào Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp và ra ân xá cho tù nhân chính trị tại Đông Dương.
Lê Duẩn bị bắt lần thứ hai năm 1940, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo.
Các nhà tù thực dân thập niên 1930-40 đã trở thành các “đại học cách mạng” nơi có việc tuyên truyền chủ nghĩa Marx – Lenin và tuyển mộ người cho Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những năm ngồi tù này đã tác động mạnh đến Lê Duẩn và đưa ông trở thành nhà cách mạng cứng rắn và không ngại thử thách.
Sau khi ra tù năm 1945, ông trở thành thành viên trong chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khi chiến tranh tái tục tháng 12-1946, Lê Duẩn được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau này là Trung ương Cục miền Nam) cho đến năm 1954, năm xảy ra các sự kiện Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneva về Việt Nam và Đông Dương được ký kết.
Hòa hay chiến?
Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định vào thời điểm Hiệp định Geneva được ký, nhiều cán bộ kháng chiến miền Nam đã rất thất vọng.
Hiệp định Geneva 1954 khiến nhiều người không hài lòng
Sau khi tình thế trở nên rõ ràng là cuộc bầu cử toàn quốc mà Hiệp định Geneva hứa hẹn sẽ không xảy ra, Lê Duẩn thúc giục Hà Nội chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
Nhưng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản (từ 1951 đã đổi tên là Đảng Lao Động) không muốn thông qua phương án này.
Theo giáo sư Pierre Asselin, của Đại học Chaminade, Honolulu, người viết một tiểu luận gần đây nói riêng về vai trò của Lê Duẩn, đã tìm cách giải thích cho sự miễn cưỡng của ban lãnh đạo Bắc Việt lúc đó.
Thứ nhất, sau hội nghị Geneva và việc chia đôi Việt Nam, Bắc Việt thực hiện chiến dịch cải cách ruộng đất và tập thể hóa. Nhưng chiến dịch này hóa ra có nhiều vấn đề hơn dự tính. Thứ hai, lực lượng vũ trang Bắc Việt chưa kịp hồi phục sau tám năm đánh Pháp.
Thứ ba, Hà Nội không muốn khiêu khích sự can thiệp của Mỹ. Vào lúc này, nhiều người trong Đảng Cộng sản chấp nhận quan điểm của Bắc Kinh và Moscow rằng Mỹ sẽ không can thiệp quân sự vào miền Nam nếu không bị khiêu khích và sự sống còn của chính phủ Sài Gòn không bị đe dọa.
Cuối cùng, Đại hội lần thứ 20 của Đảng CS Liên Xô năm 1956 tán thành chính sách “chung sống hòa bình” của Nikita Khrushchev. Theo chính sách đó, các nước cộng sản không nên tìm kiếm đối đầu quân sự với phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế với khối tư bản.
Theo giáo sư Pierre Asselin ở Việt Nam, Moscow không chỉ hy vọng Bắc Việt không mở lại giao tranh, mà – cùng với Bắc Kinh – còn thúc giục Hà Nội mở lại hội nghị Geneva để giải quyết khác biệt với chính quyền miền Nam và tránh chiến tranh.
Không muốn rạn nứt với các đồng minh bằng việc công khai bác bỏ chiến lược mới của Moscow và ủng hộ đấu tranh vũ trang. Hà Nội, ít nhất vào lúc này, không chịu thúc đẩy chính sách vũ trang vượt qua giới tuyến 17.
Sau Phiên họp lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương tháng Tám – Chín 1956, Tổng Bí thư Trường Chinh bị buộc từ chức sau những sai lầm của chiến dịch cải cách ruộng đất.
Ông Hồ Chí Minh tạm thời giữ chức lãnh đạo đảng, nhưng chỉ cho đến khi tìm ra một ứng viên thích hợp cho vị trí này.
Cuối năm ấy, vài tuần trước Phiên họp lần 11 của Ban Chấp hành, ông Lê Duẩn gửi ra Hà Nội Đề cương cách mạng miền Nam, một trong những tài liệu quan trọng nhất của Cách mạng Việt Nam sau 1954.
Tài liệu này sau đó được trình bày và bổ sung tại một cuộc họp của cán bộ miền Nam ở Phnom Penh đầu tháng 12-1956, trước khi ông Lê Duẩn chính thức đệ trình cho ban lãnh đạo đảng ở Hà Nội.
Sau khi thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đồng ý một sự gia tăng hạn chế hoạt động quân sự ở miền Nam, một quyết định sau đó được Bộ Chính trị thông qua.
Kỳ 2: Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực

Ông Lê Duẩn
Trong các lãnh đạo cộng sản, ông Lê Duẩn được xem là người có kinh nghiệm hoạt động lâu nhất ở ba miền và ở tù lâu nhất
Tháng 2-1951, diễn ra Đại hội lần thứ Hai của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này đánh dấu việc Đảng Cộng sản ra công khai sau khi đã tuyên bố “tự giải tán” vào tháng 11-1945.
Cũng tại Đại hội Hai tổ chức ở Tuyên Quang, Đảng Cộng sản thông qua quyết định đổi tên thành Đảng Lao Động.
Năm 1957, Đảng Lao động Việt Nam điều ông Lê Duẩn ra Hà Nội và chọn ông làm quyền Tổng Bí thư và vào Thường vụ Bộ Chính trị.
Quyết định đề bạt khá bất ngờ này phản ánh lo ngại ngày càng gia tăng của Đảng về tình hình ở miền Nam.
Sau này, viết trong tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (tháng Bảy 1969), nhà cách mạng miền Nam Trần Văn Giàu xác nhận giai đoạn 1957-59 là “những ngày đen tối nhất” cho phong trào cách mạng ở miền Nam.
Nghị quyết 15
Tuy vậy, mặc dù cho phép gia tăng vũ lực một cách hạn chế ở miền Nam, chính sách của Đảng Cộng sản lúc này không xem việc đẩy mạnh bạo lực cách mạng là ưu tiên. Tại phiên họp toàn thể lần thứ 14 vào tháng 11-1958, Ban Chấp hành TƯ không xem xét tình hình ở miền Nam, mà đề ra kế hoạch ba năm cho phát triển kinh tế và văn hóa ở miền Bắc. Kế hoạch sau đó được Quốc hội và Bộ Chính trị thông qua.
Ông Lê Duẩn không tham dự các buổi họp bàn này. Một tháng trước đó, Bộ Chính trị cử ông vào miền Nam để đánh giá tình hình. Khi quay về Hà Nội tháng Giêng 1959, cùng đi với Lê Duẩn là nhiều bí thư đảng bộ ở miền Nam, trong đó có Hai Xô, Trần Lương và Võ Chí Công.
Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường vận chuyển vũ khí và người từ Bắc vào Nam
Tại phiên họp lần thứ 15 của Ban Chấp hành TƯ, những người này đã mô tả về “phong trào đấu tranh của đồng bào miền Nam chống Mỹ - Diệm” và thúc giục Ban Chấp hành TƯ ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang.
Theo nhận định trong một bài viết gần đây về Lê Duẩn của giáo sư Pierre Asselin, Đại học Chaminade, Honolulu, báo cáo của ông Lê Duẩn và các đồng chí miền Nam “nắm bắt cảm giác thất vọng của những người chiến đấu và ủng hộ cuộc cách mạng ở miền Nam.”
“Họ cũng thể hiện sự gấp rút trong lòng những người kháng chiến miền Nam muốn có phản ứng trước sự ủng hộ ngày càng tăng của Mỹ dành cho chính quyền Sài Gòn.”
Hội nghị Trung ương lần thứ 15 kết thúc và ra nghị quyết, trong đó một mặt vẫn nhấn mạnh cách mạng ở miền Nam “có khả năng hoà bình phát triển”, nhưng mặt khác, chuẩn bị theo phương hướng “khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm.”
Nghị quyết 15 sau này được xem là nền tảng chỉ đạo cho công cuộc vũ trang ở miền Nam vào cuối thập kỷ 1950.
Quyết định tái tục đấu tranh vũ trang ở miền Nam được quyết định tại Hội nghị Trung ương 15 tổ chức tháng Giêng 1959, nhưng chỉ được chính thức công bố một tuần sau việc chính phủ tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59 vào tháng Năm.
Hà Nội cũng đồng ý chính thức đóng góp cho mặt trận ở miền Nam bằng việc gửi quân và tiếp viện. Ngày 19-5, đoàn tiếp vận mang bí số 559 được thành lập để “mở đường tiếp vận cho mặt trận phía nam.” Tháng Tám năm ấy, đơn vị quân miền Bắc đầu tiên lên đường vào Nam qua tuyến vận tải dọc dãy Trường Sơn (‘đường mòn Hồ Chí Minh’).
Có thể nói nghị quyết 15 là một thắng lợi cho những lãnh đạo cách mạng miền Nam, trong đó có Lê Duẩn. Khi Bộ Chính trị thông qua nghị quyết này, vẫn còn có nhiều người trong Ban Chấp hành TƯ phản đối. William Duiker (trong quyển ‘Hồ Chí Minh’, 2000) nhận xét đa số lãnh đạo trong Đảng “đồng ý rằng đấu tranh vũ trang có thể là cần thiết nếu mọi lựa chọn khác đã thất bại.” Tuy nhiên, vào lúc thông qua nghị quyết 15, nhiều người ở miền Bắc không tin rằng các “lựa chọn” khác đã được cân nhắc kỹ, và cảm thấy chưa chín muồi để chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang.
Pierre Asselin cho rằng “nếu không có sức ép lớn của miền Nam lên ban lãnh đạo miền Bắc, thì Nghị quyết 15 – quyết định tái bắt đầu chiến sự sau sáu năm gián đoạn – đã không được thông qua.”
Tổng Bí thư chính thức
Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ Ba vào tháng Chín 1960. Nghị quyết đại hội kết luận cách mạng Việt Nam sẽ đồng thời thực hiện hai mục tiêu: “tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc” và “giải phóng miền Nam.”
Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ Ba từ ngày 5 đến 10-9-1960
Tại Đại hội Ba năm 1960, ông Lê Duẩn chính thức được bầu làm Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản
576 đại biểu dự đại hội đã chọn Lê Duẩn làm tổng bí thư và là người đứng đầu Bộ Chính trị.
Vì sao lại là ông Lê Duẩn, mà không phải đại tướng Võ Nguyên Giáp, người được quốc tế biết đến nhiều nhất chỉ sau ông Hồ Chí Minh?
Theo giải thích của ông Bùi Tín trong quyển Hoa xuyên tuyết, ưu thế của ông Lê Duẩn là vì “một tiêu chuẩn tất nhiên hồi ấy, ở tù lâu năm, một bằng cấp cần thiết để được giao quyền cao chức trọng, vì từ đó được coi là được thử thách nhiều hơn, đáng tin cậy hơn.”
Hoàng Tùng, trong bài viết năm 2002 trên Tạp chí Cộng sản, cũng nói Lê Duẩn là người "hoạt động cách mạng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam lâu dài nhất, thời gian ở tù lâu nhất" và có "quan hệ rộng với các đồng chí thuộc cả hai thế hệ trong những năm hoạt động bí mật."
Tuy nhiên, “nhược điểm” ở tù ít của ông Giáp không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến việc ông Duẩn được chọn.
Tính chất của các mục tiêu đề ra ở Đại hội khiến Lê Duẩn trở thành một ứng cử viên thích hợp hơn. Thứ nhất, niềm tin của ông Lê Duẩn vào phương thức phát triển Sô viết và các nguyên tắc kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu “thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” (Nghị quyết Đại hội Ba.) Thứ hai, và quan trọng hơn cả, thời gian hoạt động của Lê Duẩn ở miền Trung và Nam Việt Nam thể hiện kiến thức và uy tín có thể giúp mục tiêu “giải phóng miền Nam” và điều hòa sự hợp tác giữa cán bộ hai miền.
Ralph Smith (trong quyển “An International History of the Vietnam War”, 1983) cũng ghi nhận thêm một chi tiết: thành công của ông Lê Duẩn ở Đại hội Ba chỉ là một phần trong sự tái tổ chức cơ cấu lãnh đạo mà sẽ kéo dài ở Bắc Việt trong cả một thập niên sau đó.
 [Lúc này] quanh Lê Duẩn vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam.

Pierre Asselin
Ralph Smith chỉ ra rằng các thay đổi trong bộ máy nhà nước đã được loan báo ngày 15-7-1960 vào cuối phiên họp đầu tiên của Quốc hội mới bầu ra. Ông Phạm Văn Đồng tiếp tục là thủ tướng, với năm phó thủ tướng (trong đó có Võ Nguyên Giáp và Phạm Hùng); nhưng ông Trường Chinh không còn là phó thủ tướng mà chuyển sang làm chủ tịch Quốc hội. Những người thân cận của ông cũng bị đưa ra khỏi chính phủ, trong đó Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương không còn có mặt trong Bộ Chính trị.
Tại Đại hội Ba, một Bộ Chính trị mới 11 người được hình thành gồm các ông: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và Hoàng Văn Hoan. Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến Dũng được bầu là thành viên dự khuyết.
Pierre Asselin ghi nhận ban đầu sự kiểm soát của ông Lê Duẩn đối với công việc của Đảng Lao động và chính phủ còn hạn chế.
“Xung quanh ông vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, phong độ và được quần chúng yêu mến hơn, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, những người cổ vũ cho đường lối thận trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam dẫu rằng Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết 15.”
Kết quả là khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.
Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao mặc dù Nghị quyết 15 đã được thông qua từ năm 1959, nhưng ngay cả sau Đại hội Ba năm 1960, vị tân Tổng Bí thư cũng chần chừ chứ chưa thúc ép ban lãnh đạo thực hiện ngay nghị quyết này. Ông Hồ Chí Minh và nhiều lãnh đạo khác cảm thấy còn nhiều vấn đề cản trở việc vạch ra một chiến lược cụ thể, chẳng hạn tác động có thể có đối với Moscow, Bắc Kinh và Washington.
Tuy nhiên, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao động nhanh chóng thay đổi. Chỉ sau vài năm kể từ lúc trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn đã xác lập uy quyền tối thượng tại Bắc Việt.
Kỳ 3: Cuộc đấu tranh trong nội bộ

Ông Lê Duẩn
Trong thập niên 1960, nhóm của ông Lê Duẩn phê phán 'chủ nghĩa xét lại hiện đại'
Như phần hai của loạt bài này đã nói, khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.
Một câu chuyện minh họa cho ảnh hưởng có mức độ của ông Lê Duẩn thời kì đầu được Thượng tướng Trần Văn Trà kể lại trong quyển Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng (1992).
Một ngày của năm 1959, ông Trần Văn Trà nghe bản tin của BBC về cuộc chạm súng giữa một trung đội quân Việt Nam Cộng Hòa và nhóm quân của những người kháng chiến ở Đồng Tháp Mười. Theo bản tin, hai bên rút đi sau hai giờ giao tranh mà không có thương vong. Ông Trà rất ngạc nhiên và kết luận hoặc bản tin của BBC sai lạc, hoặc khả năng tác chiến của những cán bộ kháng chiến miền Nam cần được cải thiện.
Ngày hôm sau, đi cùng một người bạn, ông Trà đến gặp ông Lê Duẩn và nói cần đưa cán bộ tập kết vào Nam để tăng cường đào tạo cho các đồng chí ở đấy. Ông Duẩn được cho xem đề nghị gửi 100 cán bộ trẻ từ Bắc vào Nam.
Ông Lê Duẩn ngẫm nghĩ rồi nói sẽ khó thực hiện vì Bộ Chính trị chưa quyết. Khi ông Trà nhấn thêm, ông Duẩn hỏi liệu có giảm số lượng được không.
Con số mới đưa ra là 50. Ông Duẩn lại bảo ông sẽ tự chịu trách nhiệm nếu con số nhỏ hơn nữa. Cuối cùng, họ đồng ý về con số 25 người.
Tuy vậy, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao Động Việt Nam sau đó bị phá vỡ.
Chiếm ưu thế
Những nghiên cứu gần đây đã cho biết rõ hơn làm thế nào ông Hồ Chí Minh mất dần ảnh hưởng trong tiến trình ra quyết định của Đảng Lao Động kể từ đầu thập niên 1960.
Ảnh hưởng của ông Hồ Chí Minh trong tiến trình ra quyết định của đảng thập niên 1960 bị suy giảm
Nói như William Duiker, trong cuốn Hồ Chí Minh (2000), vai trò của ông Hồ ngày càng bị hạn chế ở tư cách “một nhà ngoại giao kỳ cựu và cố vấn cho chính sách ngoại giao, đồng thời làm tròn hình ảnh người cha tinh thần của nhân dân và linh hồn của cuộc cách mạng.” Uy tín cùng mối quan hệ rộng rãi – chẳng hạn, ông Hồ có quan hệ hữu hảo với Mao Trạch Đông – khiến nhóm lãnh đạo trẻ hơn trong Đảng Lao Động Việt Nam, dù muốn hay không, cũng không thể loại hẳn ông ra khỏi tiến trình chính trị và ngoại giao.
Dù vậy, tính đến thời điểm khi Mỹ chính thức đổ quân vào miền Nam năm 1965, vai trò của ông Hồ Chí Minh ở trong đảng chủ yếu chỉ còn mang tính lễ nghi.
Một trong những người thân nhất của ông Hồ, ông Võ Nguyên Giáp, cũng bị cô lập sau này. Đối với dư luận quốc tế đương thời, Võ Nguyên Giáp là người anh hùng thứ hai, chỉ sau ông Hồ Chí Minh, trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Nhiều người trong và ngoài Việt Nam thừa nhận ông là kiến trúc sư tạo nên thắng lợi lẫy lừng ở Điện Biên Phủ, và với quân đội miền Bắc, vị đại tướng có uy tín lớn.
Sau việc ký kết Hiệp định Geneva 1954, Lê Duẩn và nhiều người khác ủng hộ đấu tranh vũ trang ở miền Nam, trong khi ông Giáp thuộc nhóm chủ trương kiềm chế và thận trọng.
Ông Giáp, giống như ông Hồ, chấp nhận chủ trương “chung sống hòa bình” mà Liên Xô đưa ra lúc bấy giờ, và đồng thời tin rằng phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước khi nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam.
 Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo trung thành.

Pierre Asselin
Thái độ này của tướng Giáp đặt ra một thách thức lớn cho ông Lê Duẩn. Nhưng cuối cùng, ông Lê Duẩn đã giảm bớt được ảnh hưởng của ông Giáp trong bộ máy lãnh đạo của đảng. Việc cô lập tướng Giáp – cùng nhiều đảng viên cao cấp khác – đóng vai trò quan trọng cho việc tìm hiểu ông Lê Duẩn vì nó cho thấy người anh hùng trên chiến trường chưa hẳn là người chiến thắng trên chính trường.
Trong tiểu luận “Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an Independent Vietnamese State”, trình bày lần đầu ở hội nghị quốc tế về Việt Nam học ở Hà Nội năm 1998, Pierre Asselin nhận xét: “Giống như Mao và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách mạng.”
“Ký ức về Hiệp định Geneva năm 1954 cũng có thể đã khiến Lê Duẩn tin rằng để cách mạng thành công, ông phải loại bỏ hết những ai không tin vào chiến thắng bằng mọi giá.”
Nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là một phần tiền đề tạo nên cái gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng.”
Tranh cãi tư tưởng
Hồi ký “Tử tù tự xử lí” của Trần Thư, người bị dính vào vụ được quen gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, mô tả không khí lúc bấy giờ là “tâm lý chủ chiến bao trùm xã hội miền Bắc” và “nếu có ai chủ trương chung sống hòa bình và thi đua hòa bình giữa hai miền thì cũng chẳng dám nói ra.”
Mâu thuẫn giữa nhóm của ông Lê Duẩn và những người chỉ trích đạt đỉnh cao ở Hội nghị TƯ 9 năm 1963 và sau đó, tăng tốc với đợt bắt giữ nhiều người ở Hà Nội vào năm 1967.
Chuyến thăm Hà Nội của Chủ tịch Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ (bên trái), năm 1963 đánh dấu việc hai nước xích lại gần hơn
Tháng Giêng 1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà Nội và ra một tuyên bố chung phản ánh quan điểm của Liên Xô và ca ngợi chung sống hòa bình là “chính sách đúng đắn nhất.”
Nhưng sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai nhóm tạm gọi là “thân Liên Xô” và “thân Trung Quốc” trong đảng Lao Động căng thẳng hơn. Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị quy trách nhiệm cho tuyên bố chung của Novotny và bị thay bằng ông Xuân Thủy.
Sử dụng tư liệu giải mật của Đông Đức, Martin Grossheim, trong bài nói về “chủ nghĩa xét lại” ở Bắc Việt, đăng trong tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, dẫn lời sứ quán Đông Đức ở Hà Nội năm 1963 nói các vị trí chủ chốt ở Bộ Ngoại giao, Thông tấn xã…đã được giao cho các cán bộ “theo sát đường lối Trung Quốc.”
Đây là các biện pháp chuẩn bị cho chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ, đến Hà Nội tháng Năm 1963. Chuyến thăm đưa Hà Nội đến gần hơn Trung Quốc, với tuyên bố chung gọi “chủ nghĩa xét lại” và “cơ hội hữu khuynh” là đe dọa chính cho phong trào cộng sản quốc tế.
Tư liệu giải mật cho biết sứ quán các nước Đông Âu có quan điểm gần Liên Xô như Đông Đức, Hungary và Tiệp Khắc, trong năm 1963, đã báo cáo rằng báo chí ở miền Bắc ngày càng phản ánh quan điểm “thân Trung Quốc.”
Sứ quán Đông Đức tháng Tám năm ấy kết luận “các nhân tố thân Liên Xô” trong đảng Lao Động đã bị cô lập một cách có hệ thống.
Đến tháng Chín, một bài báo của ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in trên báo Nhân Dân. Trong đó, tác giả nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của “chủ nghĩa xét lại” và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng.
Phía Đông Đức lúc bấy giờ kết luận bài báo của ông Lê Đức Thọ là “một sự tấn công trực diện nhắm đến các đồng chí chia sẻ quan điểm thân Liên Xô,” và là một bước lớn trong sự chuẩn bị cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 sắp tiến hành.
Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của đảng Lao Động ở Hà Nội diễn ra cuối năm 1963 trong bối cảnh vừa xảy ra cuộc đảo chính giết chết tổng thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, đã tạo nên câu hỏi có nhân cơ hội này để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở miền Nam hay không. Đồng thời, cuộc cãi vã giữa Liên Xô và Trung Quốc trên trường quốc tế ngày càng căng thẳng, đặt Hà Nội trong tình cảnh khó xử, vì đảng Lao Động hiểu rằng để đạt mục tiêu thống nhất đất nước, họ sẽ phải dựa vào hai đồng minh này.
Tại Hội nghị TƯ lần thứ 9, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã phê phán chủ trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh bằng vũ lực ở miền Nam.
Sau Hội nghị TƯ 9, nhóm do ông Lê Duẩn đứng đầu tăng cường phê phán “chủ nghĩa xét lại hiện đại” (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà Liên Xô, dưới thời Khrushchev, cổ vũ, nhưng Trung Quốc thì chỉ trích).
Trong loạt bài “Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng” của ông Lê Đức Thọ, được đăng sau Hội nghị TƯ 9, có sự thừa nhận rằng một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm…những người đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn ở Hội nghị TƯ 9.
Ông Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm nhuần nghị quyết của Hội nghị TƯ 9.
Sứ quán Đông Đức khi ấy có được trong tay nội dung của các lớp học này, theo đó, các học viên phải hiểu sâu sắc sự khác biệt giữa “chủ nghĩa Mác - Lê chân chính” và “chủ nghĩa xét lại.”
Nhà nghiên cứu Martin Grossheim nhận xét chiến dịch chỉnh huấn này “không chỉ để đối phó các quan điểm bất đồng trong đảng, mà còn là công cụ tuyên truyền để chuẩn bị cho tinh thần của người ở miền Bắc trước diễn biến chiến tranh leo thang.”
Diễn biến 1967-68
Những tranh cãi trong nội bộ đảng không dừng lại ở năm 1963-64 mà sẽ tiếp tục trong giai đoạn 1967-68.
Ban đầu, vì lo ngại sẽ đánh mất sự hỗ trợ của Liên Xô, nhóm của ông Lê Duẩn thận trọng không đưa ra các tuyên bố công khai phản ánh thái độ bài Liên Xô và thân Mao. Vì lẽ đó, dự thảo nghị quyết của Hội nghị TƯ 9 ban đầu đã kèm cả đoạn văn lên án trực tiếp Khrushchev, nhưng do yêu cầu của Lê Duẩn, đoạn này được bỏ đi.
Tuy nhiên, Khrushchev mất chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1964, quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam, và miền Bắc bắt đầu bị đánh bom năm 1965 – những diễn biến này đã đưa Hà Nội và Moscow gần nhau hơn. Kể từ đó, ông Lê Duẩn và các đồng minh cảm thấy đủ tự tin để theo đuổi chiến dịch loại bỏ chủ nghĩa xét lại một cách công khai và gay gắt hơn.
 Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng trí thức có vai trò quan trọng trong xã hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức

Sophie Quinn-Judge
Nghiên cứu gần đây nhất về sự kiện này, được Sophie Quinn-Judge công bố trên tạp chí Journal of Cold War History tháng 11-2005, ước lượng trong sự biến 1967-68, khoảng 30 nhân vật cao cấp bị bắt, và có lẽ có tới 300 người tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí luận, giáo sư, văn nghệ sĩ và phóng viên truyền hình được đào tạo ở Moscow. Một trong những người bị bắt đầu tiên là Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, bị bắt tháng 7-1967 và bị tống giam.
Cần nói rằng người ta vẫn còn biết rất ít về quá trình ra quyết định của Đảng Cộng sản Việt Nam mấy chục năm qua.
Riêng trong vụ án xét lại 1967-68, không một ai liên lụy được mang ra xét xử. Cho đến thập niên 1990, một số người còn sống và gia đình người đã khuất vẫn gửi các thư và thỉnh nguyện xin phục hồi danh dự. Và như Sophie Quinn-Judge nhận định, “cho đến nay, chính quyền Việt Nam vẫn công bố rất ít các tài liệu về việc ra quyết định ở cấp cao hơn từ thư khố của chính họ.”
Có nhiều cách diễn giải khác nhau về sự kiện năm 1967-68.
Tài liệu có tiêu đề “Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối” do Đảng Cộng sản phổ biến năm 1994, cáo buộc ông Hoàng Minh Chính và nhiều người dính líu vụ án chống Đảng là đã nắm một biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung và định gửi ra ngoại quốc, đồng thời họ bị cho là thu thập tài liệu để tiến tới một chương trình hoặc phác thảo đối lập để chống đối Đảng.
Trong khi đó, nhiều người bị tù thời kì ấy cho rằng một nguyên nhân của “vụ án chống Đảng” là vì ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ uy tín của ông Võ Nguyên Giáp. Chia sẻ phân tích này, Judith Stowe, trong bài “Revisionism in Vietnam” (1995) nói ông Võ Nguyên Giáp “là đối tượng chính của chiến dịch bài trừ khuynh hướng xét lại.”
Pierre Asselin, trong bài viết về Lê Duẩn, nói thêm “do quá nguy hiểm nếu công kích cá nhân ông Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến đội ngũ ủng hộ vị tướng, đặc biệt những người thân cận và trung thành nhất trong hàng ngũ cấp cao của Đảng và chính phủ.”
Sophie Quinn-Judge lại cho rằng vụ án chống Đảng 1967-68 thể hiện một cuộc đấu tranh tư tưởng, chứ không đơn thuần mang tính cá nhân, trong nội bộ đảng.
“Đó là cuộc cạnh tranh giữa [một bên là nguyện vọng] thống nhất dân tộc (trong khuôn khổ liên minh yêu nước), phát triển khoa học và tiến bộ kĩ thuật với [phía bên kia là] khát vọng cách mạng của quần chúng và sức mạnh biến đổi của cách mạng bạo lực. Nhóm thứ nhất dựa trên quan điểm rằng trí thức có vai trò quan trọng trong xã hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên trên tri thức.”
Kỳ 4: Một di sản gây tranh cãi

Ông Lê Duẩn
Ông Lê Duẩn giữ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam gần 30 năm
Sau kết quả của điều gọi là “vụ án xét lại – chống Đảng”, cán cân quyền lực trong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghiêng hẳn về phía ông Lê Duẩn.
Những người ủng hộ quan điểm của ông Lê Duẩn được đề bạt và trở thành một phần quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo.
Các đồng minh
Sự trợ giúp mà ông Lê Duẩn nhận được từ ông Lê Đức Thọ trong suốt tiến trình thâu tóm quyền lực là vô cùng quan trọng.
Tham gia cách mạng từ những năm 1920, ông Lê Đức Thọ trải qua nhiều năm trong tù. Khi được thả năm 1945, ông được gửi vào miền Nam và làm phó cho ông Duẩn trong suốt giai đoạn xung đột giữa Việt Minh và Pháp. Quan hệ giữa hai người này sẽ có một ảnh hưởng sâu sắc trong đảng. Khi ông Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Đức Thọ được cử làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, một vị trí mà theo William Duiker, được nhanh chóng “biến thành bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên.”
Pierre Asselin nói thêm rằng ông Lê Duẩn “không thể củng cố uy quyền một cách hiệu quả như đã làm nếu không có sự ủng hộ của ông Lê Đức Thọ; sự trung thành và trợ giúp của người này tỏ ra cần thiết để thanh lọc ban lãnh đạo ở Hà Nội.”
Một người đóng vai trò lớn trong cuộc chiến Việt Nam là đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Cho đến giữa thập niên 1960, miền Bắc chỉ có hai đại tướng bốn sao là ông Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh) và ông Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị).
Một số chuyên gia nước ngoài như Douglas Pike đã ghi nhận sự cạnh tranh và khác biệt trong tư tưởng quân sự giữa hai vị tướng này.
Ông Lê Đức Thọ
Ông Lê Đức Thọ được xem là đồng minh thân cận nhất của ông Lê Duẩn
Trong một bài viết năm 1966, tướng Giáp nói cuộc xung đột ở miền Nam là một cuộc chiến kéo dài và rằng chiến lược quân sự có thể mất nhiều năm để đạt thắng lợi. Ông nói ông không tin vào “các trận đánh sử dụng đơn vị chính quy lớn vì điều này có lợi cho chiến lược của kẻ thù.”
Tướng Thanh ngay lập tức có phản ứng. Trong bài viết đăng ở tạp chí Học Tập, tướng Thanh cho rằng chiến lược tấn công ở miền Nam là con đường đúng dẫn đến thắng lợi và nói thêm rằng lập luận của những người chỉ trích là “không logich.”
Một trong những lý do đưa ông Lê Duẩn và ông Nguyễn Chí Thanh trở thành đồng minh gần gũi là vì ngay từ đầu, hai người cùng quan điểm rằng con đường dẫn đến thắng lợi ở miền Nam phụ thuộc vào quân sự.
Gần đây hơn, trong bài viết năm 2002 về vai trò của những người gốc miền Nam trong cuộc chiến mang tựa đề “Why the South Won the American War in Vietnam,” Robert Brigham ghi nhận tướng Giáp “từ lâu đã chỉ trích tư tưởng quân sự của tướng Thanh, và ông công khai bày tỏ nghi ngờ về hiệu quả của chiến lược tấn công của tướng Thanh...Ông Võ Nguyên Giáp ngày càng trở nên thận trọng và thực tiễn trong cuộc chiến chống Mỹ. Một số người nói điều này rốt cuộc khiến ông đánh mất uy quyền chính trị.”
Ông Lê Duẩn hiểu rằng việc giảm uy thế của tướng Giáp có thể tạo ra chỉ trích và chống đối. Vì thế, nói như lời của chuyên gia Pierre Asselin, “bằng cách đề bạt và tạo điều kiện cho sự nghiệp của tướng Nguyễn Chí Thanh, ông Lê Duẩn thành công trong việc tạo nên một thần tượng mới trong quân đội.”
Mặc dù đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967, nhưng quan điểm của ông, rằng cuộc chiến nhân dân không thể thắng lợi nếu thiếu hỗ trợ của các đơn vị chính quy lớn, tiếp tục giữ ảnh hưởng ở Hà Nội. Từ cuối 1965 đến khi chiến tranh kết thúc năm 1975, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính quy được đưa từ miền Bắc vào Nam.
Bằng cách giảm ảnh hưởng của những người như ông Hồ Chí Minh và tướng Giáp, và đề bạt những người trung thành, ông Lê Duẩn đã tạo ra một cơ cấu lãnh đạo mà những niềm tin và nguyên tắc lãnh đạo của nó để lại ảnh hưởng sâu sắc ở Việt Nam.
Thời hậu chiến
Cuối năm 1976, tại Đại hội Bốn, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông Lê Duẩn tái đắc cử chức Tổng Bí thư . Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công và Chu Huy Mân. Ba ủy viên dự khuyết là Tố Hữu, Võ Văn Kiệt và Đỗ Mười.
Nói về những người cộng sản giai đoạn hòa bình lập lại, David Elliott, trong quyển sách được đánh giá cao The Vietnamese War (2003), nhận xét những thành viên cách mạng còn sống đến phút cuối cuộc chiến “thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là những người đủ khả năng đưa VN đi tiếp trên đường phát triển.”
Sau chiến thắng là những khó khăn thời hậu chiến
“Họ đã từng thể hiện sự dũng cảm phi thường, thậm chí anh hùng. Nhưng họ cũng đã học những thói quen để sống còn mà giờ đây kiềm chế sự phát triển của một hệ thống cởi mở hơn thời hậu chiến...Quan trọng nhất, niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn mọi quyền lợi cá nhân đã dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân, và thường trở thành cớ cho việc lạm dụng quyền lực của những cán bộ, những người coi thường quy tắc pháp trị tư sản và cho rằng mục tiêu cách mạng có thể biện minh cho phương pháp.”
Pierre Asselin, trong tiểu luận về Lê Duẩn, đã nói thay nhiều người khi cho rằng “dưới thời Lê Duẩn, ít thay đổi tích cực nào xảy ra ở Việt Nam giai đoạn sau khi thống nhất.”
Tháng Bảy năm 1986, trước lúc diễn ra Đại hội Đảng lần thứ Sáu, ông Lê Duẩn qua đời. Sự ra đi này mở cánh cửa cho quan hệ gần hơn với Bắc Kinh – do ông Lê Duẩn sau này đã trở thành biểu tượng của sự không đồng thuận về nhiều điểm với Trung Quốc – và sau đó, với các chính phủ Tây phương, trong đó có Mỹ.
Cũng từ 1986, việc đề cử ông Nguyễn Văn Linh lên làm tân Tổng Bí thư, và chính sách Đổi mới, đã đánh dấu sự chấm dứt của thời kì lãnh đạo đất nước kiểu Stalin ở Việt Nam.
Ở đây, những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam cũng có thể được xem là tương tự giai đoạn “tan băng” ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời, hơn là giống quá trình perestroika đang diễn ra khi đó dưới thời Gorbachev.
Một tác giả, Seweryn Bialer, viết về Liên Xô giai đoạn sau khi Stalin qua đời và Khrushchev lên kế nhiệm: “Đó là giai đoạn xôn xao, có phản ứng sẵn sàng hơn trước các sức ép cả có thật lẫn được mong chờ, một giai đoạn có tiềm năng cho phép nới rộng sự tham gia chính trị. Sự kế nhiệm, bên cạnh tầm quan trọng tự nhiên của nó, cũng là chất xúc tác cho các sức ép và khuynh hướng vốn từ lâu tồn tại bên trong xã hội nhưng đã không có cơ hội được bày tỏ và nhận diện.” Những diễn biến ở Việt Nam sau khi ông Lê Duẩn qua đời gần với những gì đã xảy ra sau cái chết của Stalin hơn là thời Gorbachev.
 Niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn quyền lợi cá nhân dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân.

David Elliott, trích trong quyển The Vietnamese War
Giai đoạn nắm quyền của ông Nguyễn Văn Linh, giống như thời Khrushchev, cũng chấm dứt đột ngột để Đảng có thể bổ nhiệm một lãnh đạo khác ít “cấp tiến” hơn, thận trọng hơn.
Có thể đánh giá thế nào về cuộc đời và di sản của ông Lê Duẩn?
Với cương vị Tổng Bí thư, vai trò chính của ông Lê Duẩn cần được thừa nhận trong những quyết sách của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam.
Mặc dù miền Bắc đã nhận nhiều viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, các nghiên cứu gần đây – như của Ilya Gaiduk, Chen Jian, Mari Olsen – cho thấy Hà Nội duy trì sự tự chủ trong cách tiến hành chiến tranh chống Mỹ. Tư liệu mới cho thấy trong từng thời kì, cả Bắc Kinh, Moscow và Hà Nội đều có sự bực bội và nghi ngờ lẫn nhau. Dưới thời ông Lê Duẩn, Đảng Cộng sản hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc để đạt mục tiêu, nhưng không phải là con rối trong tay hai cường quốc.
Các tài liệu chính thống ở Việt Nam hiện nay đều dành sự ca ngợi vẹn toàn cho ông. Tuy nhiên, ẩn đằng sau những hàng chữ chính thống ấy còn là những sự tế nhị khác.
Cuối những năm 90, có quyển hồi ký của ông Trần Quỳnh – nguyên thư ký riêng của ông Lê Duẩn và sau này là Phó Thủ tướng.
Tập sách này không được lưu hành chính thức. Nội dung sách hoàn toàn ca ngợi ông Lê Duẩn, nhưng có thể cũng chính vì giọng văn quá ca ngợi này, cuốn sách – vô tình hay cố ý – đã khơi lại những tình cảm u uất trong nhiều người. Đáng lưu ý, tác giả nói một mục đích khi viết sách là để chống lại hành động “làm lu mờ bôi nhọ hình ảnh của Lê Duẩn.”
Nếu quả thật, như ông Trần Quỳnh cáo buộc, rằng “sau khi Lê Duẩn qua đời, những người lãnh đạo đất nước, những người trước đó đã ca ngợi Lê Duẩn, không dám hé răng nói một lời xấu về Lê Duẩn, đã cố ý hay vô tình để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê Duẩn ngày càng qui mô hơn,” thì là vì sao?
Trong giai đoạn làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu khắp mọi nơi. Vì thế, như chuyên gia Pierre Asselin chỉ ra, sự nghi ngờ của ông Lê Duẩn lớn đến mức ông “dựa vào chỉ một vài cá nhân trong việc tìm lời khuyên và chuyên môn.” Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà từ 1986, công thức cân bằng vùng miền (Bắc – Trung – Nam) đã được dùng khi xét đến ba vị trí lãnh đạo nhà nước ở Việt Nam. Những bất mãn về sự tập trung quyền lực trong tay vài người đã là một trong các nguyên nhân dẫn tới việc phân bổ quyền lực rộng hơn sau 1986.
Stein Tonnesson, trong lời giới thiệu cho tư liệu “Lê Duẩn and the Break with China” (2001), nhận xét ông Lê Duẩn “là lãnh đạo có quyền lực lớn thứ hai ở Việt Nam trong thế kỷ 20.” Quyền lực ấy đã được sử dụng thế nào có lẽ là câu hỏi lớn mà bất kì nghiên cứu nào trong tương lai đều sẽ muốn tìm một câu trả lời đầy đủ.